5 xét nghiệm sức khỏe nên làm trước khi kết hôn
(Chinhphu.vn) - Trên thực tế, nhiều người lâu nay vẫn còn tâm lý e ngại khám sức khỏe trước khi kết hôn, do sợ nếu phát hiện bệnh sẽ ảnh hưởng đến hạnh phúc lứa đôi, thậm chí có người còn cho là chỉ nghi ngờ nhau mới phải khám. Tuy nhiên, theo thời gian, những tâm lý lạc hậu này đã dần được loại bỏ. Theo các bác sĩ chuyên khoa, khám sức khỏe trước khi kết hôn giúp phòng ngừa, phát hiện và điều trị sớm nhiều căn bệnh nguy hiểm, bảo đảm hạnh phúc gia đình.
Loại xét nghiệm đầu tiên bạn cần thực hiện là HIV
Bộ Y tế đã từng khuyến cáo, khám sức khỏe trước hôn nhân giúp bạn bước vào cuộc sống vợ chồng một cách tự tin nhất. Điều này cũng giúp bạn có thể được chăm sóc sức khỏe phù hợp hoặc kịp thời điều trị nếu phát hiện vấn đề bất thường. Dưới đây là 5 xét nghiệm phổ biến mà các cặp đôi nên thực hiện trước khi cưới.
HIV và các bệnh lây truyền qua đường tình dục (STDs)
Loại xét nghiệm đầu tiên bạn cần thực hiện là HIV và các bệnh STDs như viêm gan B và C, lậu, giang mai… Thống kê cho thấy, 50% thanh niên mắc một bệnh STDs nhưng không biết.
Những căn bệnh như viêm gan B và C, HIV sẽ tiếp tục phát triển trong thời gian dài, vì vậy, người bệnh cần biết cách làm thế nào để kiểm soát tình trạng bệnh. Nếu không hay biết bản thân đã mắc bệnh, họ có thể vô tình truyền bệnh sang cho vợ/chồng sau khi kết hôn hay thậm chí là lây cho con sau này.
Các dạng bệnh lây truyền qua đường tình dục khác như lậu, giang mai, mụn cóc, viêm âm đạo do vi khuẩn…, có thể điều trị nếu phát hiện sớm. Điều trị sớm những căn bệnh này có thể làm giảm nguy cơ sẩy thai và vô sinh trong khi bạn mang thai.
Kiểm tra khả năng sinh sản
Theo India Times, việc xét nghiệm khả năng sinh sản là rất cần thiết cho tương lai của cặp đôi, đặc biệt với những người dự định sinh sớm.
Nếu có bất kỳ vấn đề nào phát sinh, cặp vợ chồng cũng có đủ thời gian để kiểm soát và điều trị bệnh kịp thời. Nếu sau khi kết hôn, chúng ta phát hiện ra một trong hai người không có khả năng sinh sản, có thể dẫn đến căng thẳng, cãi vã, áp lực về cảm xúc và gia đình. Những tác nhân này càng khiến các bạn khó có con, thậm chí gây vô sinh. Loại xét nghiệm này bao gồm:
- Nam giới: Xét nghiệm mẫu tinh dịch để kiểm tra chất lượng và số lượng tinh trùng, từ đó chẩn đoán khả năng sinh sản.
- Nữ giới: Xét nghiệm sự rụng trứng, nội tiết tố, siêu âm vùng chậu để kiểm tra khả năng làm mẹ.
Xét nghiệm gene di truyền
Khi biết rõ tiền sử bệnh tật của đối phương, bạn sẽ có sự chuẩn bị kỹ lưỡng hơn trước khi kết hôn. Xét nghiệm kiểm tra các dạng bệnh di truyền từ gene bố mẹ hoặc có khả năng di truyền cho thai nhi.
Những dạng bệnh di truyền bác sĩ có thể yêu cầu bạn kiểm tra là tiểu đường, ung thư, huyết áp cao, các vấn đề về cholesterol, gan, thận, tình trạng ruột hay bệnh thalassemia (bệnh thiếu máu di truyền).
Để phòng tránh biến chứng có thể gặp phải ở thai nhi và ngăn ngừa bệnh di truyền tiềm ẩn phát triển, bạn cần xét nghiệm gene. Việc biết rõ bản thân đang mắc dạng bệnh di truyền nào sẽ giúp bạn có những phương án phòng ngừa và điều trị bệnh phù hợp.
Tình trạng bệnh mạn tính
Các vấn đề sức khỏe di truyền có thể dễ dàng chuyển từ thế hệ này sang thế hệ khác. Do đó, điều quan trọng là hai bạn phải đi xét nghiệm các tình trạng bệnh mạn tính trước khi quá muộn. Một số bệnh bao gồm ung thư vú, ung thư ruột kết, bệnh thận và tiểu đường.
Chẩn đoán kịp thời cũng có thể giúp điều trị sớm cho những tình trạng bệnh lý này trước khi chúng đe dọa tính mạng của bạn. Việc kiểm tra sớm các bệnh mạn tính cũng giúp các cặp vợ chồng thay đổi lối sống cần thiết và phù hợp với nhau.
Xét nghiệm nhóm máu
Theo Huffington Post, đây là dạng xét nghiệm đơn giản và cần thiết. Việc biết rõ bản thân bạn và đối tượng kết hôn mang nhóm máu nào sẽ giúp bạn kiểm tra mức độ tương thích. Nhóm máu của bạn có thể là A, B, O hoặc AB nhưng có thành phần khác được gọi là yếu tố Rhesus (RH). Yếu tố RH là dương ( ) hoặc âm (-).
Nếu phụ nữ có RH- kết hôn với người có RH , 50% con của họ sẽ là . Trong trường hợp này, nhóm máu của người mẹ xung đột với con. Điều này có nghĩa là trong suốt thời kỳ mang thai, tế bào hồng cầu ở cơ thể người mẹ sẽ xâm nhập vào nhau thai hoặc thai nhi và sản sinh ra các kháng thể tấn công lại thai nhi.