Bệnh da ở người bệnh AIDS

06/02/2012 15:02

Nguyên nhân gây bệnh là vi-rút HIV. Người ta có thể nhiễm vi-rút HIV trong nhiều năm trước khi những triệu chứng của bệnh thật sự xuất hiện. Sự xuất hiện những biến chứng đe dọa đến tính mạng là do virut phá hủy tế bào lympho T CD4, là tế bào thiết yếu trong hệ miễn dịch bảo vệ cơ thể chống nhiễm trùng và các bệnh khác.

 Bệnh nhân AIDS phát triển các nhiễm trùng đe dọa đến tính mạng, hầu hết là các nhiễm trùng nặng (như nhiễm trùng phổi do pneumonia carinii, là loại vi khuẩn không gây nhiễm trùng ở những người khoẻ). Bệnh nhân AIDS cũng có thể phát triển các loại ung thư da như Sarcome Kaposi và nhiều bệnh nhiễm trùng cơ hội khác.

Một số biểu hiện ngoài da thường gặp ở người bệnh AIDS:

Sarcome Kaposi

Biểu hiện bệnh da thường gặp của AIDS là Sarcome Kaposi. Là dạng rất hiếm của ung thư chiếm khoảng 20% những trường hợp AIDS. Chẩn đoán Sarcome Kaposi nhờ Biopsy (sinh thiết). Thương tổn Sarcome Kaposi không đau, không ngứa. Thương tổn có thể xuất hiện bất cứ vùng da nào hay ở miệng. Màu sắc thương tổn thay đổi từ màu hồng đến màu đỏ sẫm, màu tím hay nâu và thường dễ bị nhầm với những thương tổn do vết cắn côn trùng, vết chàm, vết thâm tím... kích thước thay đổi từ đầu ghim đến đồng xu lớn và phát triển ngày càng lớn cho đến khi thành u. Có thể có một hoặc nhiều thương tổn, những thương tổn mới phát triển bất kỳ nơi nào trên da trong quá trình tiến triển của bệnh. Đôi khi Sarcome Kaposi có thể kèm theo u lympho và có thể u ở lách, gan, dạ dày, phổi...

Thương tổn u lớn ở mặt và các vùng da hở khác là vị trí đáng lưu ý làm cho bệnh nhân khó chịu, nên cắt bỏ hay phẫu thuật tại chuyên khoa da liễu. Khi khối u lan toả phải cần hoá trị liệu để kiểm soát.

Những loại bệnh da khác liên quan tới AIDS

Có nhiều  bệnh da  xuất hiện liên quan tới AIDS. Điều cần nhấn mạnh là hầu hết các ban đỏ thường thấy trên bệnh nhân da liễu thông thường và không nhất thiết điều đó chỉ ra rằng bệnh nhân đó nhiễm HIV. Trên bệnh nhân HIV, bệnh da thường nặng và điều trị khác với người khoẻ mạnh bình thường. Khi xuất hiện ban đỏ trên da cần gặp bác sĩ da liễu để được kiểm tra, chẩn đoán và điều trị.

Nhiễm virut

Nhiễm virut da thường gặp ở bệnh nhân HIV/AIDS. Bệnh có thể xuất hiện ở bất cứ vùng nào trên da, niêm mạc miệng, mắt, mũi, trực tràng và sinh dục. Ở người nhiễm HIV/AIDS thường nặng, khó điều trị và hay tái phát.

Nhiễm Herpes simplex (còn gọi là bệnh mụn rộp, giời leo...) xuất hiện phổ biến quanh mũi, miệng và có thể xuất hiện ở mắt, hậu môn, sinh dục nhưng cũng có thể kèm theo ở bất kỳ vùng nào trên da. Trước khi xuất hiện bọng nước và loét, thương tổn thường đỏ,  nhạy cảm, nóng, ngứa và đau, mụn nước thành chùm có thể loét. Ở người thương tổn thường khỏi sau 5-10 ngày nhưng ở bệnh nhân AIDS thương tổn thường loét rộng ra, đau nhiều, lâu lành, có thể từ 3 đến 4 tuần hoặc lâu hơn. Điều trị bằng thuốc uống kháng vi-rút. Thuốc bôi tại chỗ có thể áp dụng cho thương tổn khô. Kháng sinh được chỉ định khi có nhiễm trùng thêm. Một số bệnh nhân nặng có thể kèm theo sốt, đau đầu, yếu cơ đòi hỏi phải nhập viện và dùng thuốc kháng virut đường tiêm.

Bệnh zona: Bệnh do virut Herpes zoster, bệnh được biết với tên gọi là zona. Viut này cùng họ với loại virut gây bệnh thủy đậu ở trẻ em. Đỏ da xuất hiện đột ngột thành đám giới hạn ở một bên cơ thể, khi bệnh mới khởi phát thì vùng da thương tổn nhạy cảm và đỏ, thường rất đau nhức. Mụn nước, bọng nước xuất hiện thành chùm, có khi trợt loét, có trường hợp biểu hiện giống nấm, có cảm giác rát bỏng. Đau nhiều là triệu chứng cơ năng điển hình của bệnh, nguyên nhân do viêm dây thần kinh ngoại biên. Bệnh zona thường gặp ở bệnh nhân suy giảm miễn dịch, nhiễm HIV. Đau có thể kéo dài nhiều tuần và có khi suốt cả cuộc đời. Dung dịch bôi tại chỗ và thuốc kháng virut uống giúp làm khô bọng nước và vết loét. Vết loét nhiễm trùng thì cần bôi thêm dung dịch kháng sinh. Bệnh lan toả nhiều cần phải nhập viện và có chỉ định dùng kháng virut bằng đường tiêm cũng như dùng thuốc mạnh hơn để khống chế cơn đau.

U mềm lây: là bệnh do virut thường gặp ở trẻ em, ít gặp hơn ở người lớn đang tuổi hoạt động tình dục. Thương tổn xuất hiện giống như hạt trai, bóng, màu sắc và kích thước thay đổi, bề mặt thương tổn lõm giữa, không đau và không ngứa. Bệnh thường gặp ở những người nhiễm HIV, thương tổn lan toả và phát triển bất kỳ vùng nào trên bề mặt da. Điều trị bằng cách nạo hay cắt thương tổn nhưng bệnh do virut nên chúng có thể tiếp tục phát triển ở vị trí khác.

Sùi mào gà, mụn cóc: do papilloma virus. Bệnh thường gặp lành tính, ít đau có thể xuất hiện bất kỳ vùng nào trên da, đặc biệt là ở chân, tay và mặt, cũng thấy ở vùng sinh dục hoặc hậu môn. Khi xuất hiện ở những người nhiễm HIV bệnh có khuynh hướng rộng hơn, nhiều hơn và lan toả hơn so với người thường. Khi tổn thương phát triển ở vùng trực tràng hay sinh dục, thương tổn thường lan rộng và gây khó chịu. Ở người nhiễm HIV, bệnh thường đề kháng với các phương pháp điều trị  và tái phát liên tục.

Bạch sản dạng lông ở miệng: Là bệnh hiếm gặp đặc trưng bởi những mảng trắng, nhỏ, mờ ở lưỡi. Thương tổn này gần đây gặp rất nhiều trên bệnh nhân HIV. Bệnh do vi-rút thuộc họ Epstein Bar vi-rút gây ra, chúng gây loét miệng ở trẻ em và gây khó khăn trong chẩn đoán phân biệt với bệnh nấm miệng.

Nhiễm nấm

Nhiễm nấm Candida miệng: Nhiễm nấm candida miệng, âm hộ và các nếp kẽ của da gây ra do Candida albican thường xuất hiện trên bệnh nhân AIDS và người nhiễm HIV. Ở miệng thương tổn là mảng màu trắng giống như sữa vón ở lưỡi, mặt trong má và nhanh chóng lan ra toàn bộ mặt lưỡi. Nấm miệng khó phân biệt với bệnh bạch sản dạng lông ở người nhiễm HIV. Nấm miệng thường gây viêm họng đỏ, nuốt đau, mất vị giác. Nhiễm nấm có thể lan từ họng xuống thực quản, gây cảm giác rát bỏng trong ngực khi nuốt.

Nhiễm nấm khác

Có nhiều chủng nấm thường gặp như trichophyton hay tansurans gây ngứa, bong vảy da ở chân, ngón tay, móng tay người nhiễm HIV. Thương tổn là đỏ da, bong vảy, mạn tính ở da. Ở móng thì gây dày móng, thay đổi bề mặt và màu sắc móng. Nhiễm nấm da đáp ứng thuốc kháng nấm bôi tại chỗ nhưng nhiễm nấm móng thì chỉ đáp ứng với thuốc dạng uống và phải điều trị trong nhiều tháng. Nhiễm nấm có thể tái lại sau điều trị, đặc biệt ở người nhiễm HIV.

Nhiễm vi khuẩn

Người nhiễm HIV phát triển nhiều nhiễm trùng da do vi khuẩn, có nguy cơ phát triển abcees tại chỗ. Nhiễm khuẩn thường gặp trên người nhiễm HIV là chốc, các bọng nước lớn, dễ vỡ, tiết dịch vàng. Ngay khi bọng nước vỡ ra thương tổn có khuynh hướng loét và đóng vảy tiết vàng. Nuôi cấy dịch bọng nước có thể xác định được loại vi khuẩn để điều trị kháng sinh thích hợp. Ở người suy giảm miễn dịch, nhiễm khuẩn ở da đe doạ nhiễm khuẩn huyết. Bệnh nhân cần được điều trị tại bệnh viện.

Bệnh da khác

Viêm da tiết bã: Là biểu hiện viêm, đỏ da và bong vảy từng mảng ở mặt, ngực, trán, cung mày, kẽ mũi, tai. Vảy trên da đầu hay gặp gọi là gàu, đỏ da thường thấy ở ngực và mông. Đỏ da, bong vảy và rất ngứa, vảy dày ẩm và lan toả thành đám. Điều trị bằng bôi kem, mỡ có corticoid.

Vảy nến: Bệnh nhân bị nhiễm HIV có tiền sử vảy nến thường làm bệnh trở nên xấu hơn.Vảy nến bùng phát với triệu chứng tăng kích thước, số lượng thương tổn và màu đỏ tươi hơn. Vị trí thương tổn ở da đầu, khuỷu tay, đầu gối, một số bệnh nhân có thương tổn vảy dày lòng bàn tay, bàn chân kèm theo mụn mủ. Vảy nến có thể xuất hiện toàn thân lan toả kèm theo ngứa, đỏ da, bong vảy. Bệnh nhân cần điều trị tại bệnh viện. Bệnh nhân HIV bị vảy nến thường đề kháng với các thuốc bôi corticoid, hắc ín và đề kháng với các điều trị truyền thống như chiếu tia. Methotrexate được sử dụng điều trị cho bệnh vảy nến thể mảng nhưng nguy hiểm khi sử dụng cho người nhiễm HIV vì thuốc làm suy giảm miễn dịch.

Ban đỏ, mày đay, sẩn ngứa: Một trong những vấn đề của da trên bệnh nhân HIV là ngứa lan toả, đỏ da và có sẩn bằng đầu đinh ghim hay bằng những hạt đậu nhỏ tạo thành đám. Ngứa dai dẳng và khó kiểm soát, đáp ứng kém với điều trị kháng histamin và thuốc corticoid bôi.

Viêm nang lông và ban dạng trứng cá: Bệnh nhân bị nhiễm HIV thường phát triển các thương tổn giống trứng cá. Thương tổn là mụn nhỏ, số lượng nhiều. Mụn mủ tập trung quanh chân lông ở ngực, lưng, mặt, da đầu, chân và mông. Ban ở da giống trứng cá cũng có thể ngứa làm bệnh nhân gãi dẫn đến chảy máu và nhiễm trùng thứ phát, điều trị bằng uống kháng histamin và bôi dung dịch sát khuân làm khô thương tổn.

}
Top