Căn cứ để xác định mua bán dâm?
Chế tài xử lý hành vi mua, bán dâm. Người có hành vi mua, bán dâm có thể bị chịu trách nhiệm hành chính, truy cứu trách nhiệm hình sự.
Hỏi: Nếu hai người khác giới ở trong phòng, căn cứ gì để công an khi kiểm tra xác định họ có mua bán dâm hay không?
Căn cứ để xác định mua bán dâm? - Ảnh minh họa |
Trả lời:
Điều 3 Pháp lệnh phòng, chống mại dâm 2003:
1. Bán dâm là hành vi giao cấu của một người với người khác để được trả tiền hoặc lợi ích vật chất khác.
2. Mua dâm là hành vi của người dùng tiền hoặc lợi ích vật chất khác trả cho người bán dâm để được giao cấu.
Như vậy, để xác định có hành vi mua bán dâm hay không, cơ quan chức năng sẽ phải áp dụng các biện pháp nghiệp vụ cần thiết.
Bằng cách dựa trên các yếu tố như thông tin cá nhân người bị kiểm tra đã từng có tiền án tiền sự về hành vi này hay chưa? Tại hiện trường có những dấu hiệu như thế nào? Hay mục đích của việc ở chung với nhau đó để làm gì? Đặc biệt là thông tin về nhân thân do hai người cung cấp về nhau có khớp không?...
Người mua dâm tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử phạt hành chính bằng hình thức cảnh cáo hoặc phạt tiền theo quy định tại Điều 22 Nghị định 167/2013/NĐ-CP, theo đó người có hành vi mua dâm thể bị phạt tiền đến 5.000.000 đồng.
Người mua dâm người chưa thành niên hoặc biết mình bị nhiễm HIV mà cố ý lây truyền bệnh cho người khác thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội mua dâm người chưa thành niên theo quy định tại Điều 256 Bộ luật Hình sự 2009 sửa đổi, bổ sung hoặc Tội lây truyền HIV cho người khác theo quy định tại Điều 117 Bộ luật Hình sự 2009 sửa đổi, bổ sung.
Điều 256 Bộ Luật hình sự 2009 sửa đổi, bổ sung về Tội mua dâm người chưa thành niên:
1. Người nào mua dâm người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến tám năm:
a) Phạm tội nhiều lần;
b) Mua dâm trẻ e m từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi;
c) Gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:
a) Phạm tội nhiều lần đối với trẻ e m từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi;
c) Gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên.
4. Người phạm tội còn bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến mười triệu đồng
Điều 117 Bộ Luật hình sự 2009 sửa đổi, bổ sung về Tội lây truyền HIV cho người khác:
1. Người nào biết mình bị nhiễm HIV mà cố ý lây truyền bệnh cho người khác, thì bị phạt tù từ một năm đến ba năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến bảy năm:
a) Đối với nhiều người;
b) Đối với người chưa thành niên;
c) Đối với thầy thuốc hoặc nhân viên y tế trực tiếp chữa bệnh cho mình;
d) Đối với người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.
Theo đó, mức hình phạt đối với Tội mua dâm người chưa thành niên có thể lên đến 8 năm tù, bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến mười triệu đồng; đối với Tội lây truyền HIV cho người khác có thể lên đến 7 năm tù.
Người bán dâm, tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử phạt hành chính bằng hình thức cảnh cáo hoặc phạt tiền theo quy định tại Điều 23 Nghị định 167/2013/NĐ-CP, theo đó, người có hành vi bán dâm có thể bị phạt tiền đến 500.000 đồng, bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc đưa vào cơ sở chữa bệnh.
Người bán dâm là người nước ngoài thì tuỳ theo tính chất mức độ vi phạm mà bị xử phạt hành chính bằng hình thức cảnh cáo, phạt tiền, trục xuất. Người bán dâm biết mình bị nhiễm HIV mà cố ý lây truyền bệnh cho người khác thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội lây truyền HIV cho người khác theo quy định tại Điều 117 Bộ Luật hình sự 2009 sửa đổi, bổ sung.