Coi chừng bị nhiễm trùng roi
Trùng roi âm đạo có tên khoa học là Trichomonas vaginalis được lây nhiễm trực tiếp qua quan hệ tình dục không an toàn.
Đặc điểm của trùng roi âm đạo
Vào năm 1884, nhà khoa học Kunsther đã phát hiện thấy rất nhiều trùng roi Trichomonas vaginalis ký sinh ở âm đạo và dịch tiết âm đạo ở hầu hầu hết phụ nữ được khám ở bệnh viện thành phố Bordeaux thuộc nước Pháp. Bệnh do loại trùng roi này gây ra đã được các nhà khoa học mô tả từ trước công nguyên và thường gặp ở hầu hết các nước trên thế giới kể cả Việt Nam.
Trong vài thập kỷ qua, bệnh lây truyền qua đường tình dục được xếp vào 1 trong 5 nhóm bệnh hàng đầu cần có sự quan tâm và chăm sóc của ngành y tế đối với người trưởng thành và trước đây quan niệm rằng chỉ có 5 loại bệnh cổ điển có thể lây truyền qua đường tình dục là lậu, giang mai, hạ cam, hột xoài và u hạt bẹn. Nhưng ngày nay, nhờ sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật các nhà khoa học đã tìm ra hơn 20 loại bệnh có khả năng lây truyền qua đường tình dục; trong đó có bệnh trùng roi âm đạo. Từ đây, bệnh trùng roi âm đạo được nghiên cứu như là nguyên nhân gây ra các bệnh lây truyền qua đường tình dục STDs (sexually transmitted diseases).
Trùng roi âm đạo Trichomonas vaginalis chỉ có một vật chủ là người. Ở phụ nữ, vị trí ký sinh của trùng roi chủ yếu ở âm đạo, trong dịch tiết âm đạo; tại các nếp nhăn ở da, niêm mạc bộ phận sinh dục, niệu đạo... Chúng ưa ký sinh ở môi trường hơi toan, có độ pH khoảng từ 6 - 6,5; vì vậy khi ký sinh ở âm đạo trùng roi sẽ chuyển môi trường âm đạo từ toan sang kiềm. Quá trình chuyển đổi độ pH là do trùng roi tiết ra một thứ men và phối hợp với nhiều loại vi khuẩn có ở âm đạo.
Các nhà khoa học cho rằng trùng roi có khả năng hạ thấp độ toan âm đạo do đào thải những tế bào thượng bì âm đạo làm giảm lượng glycogen trong tế bào âm đạo. Mặt khác, môi trường toan bình thường ở âm đạo của những người phụ nữ khỏe mạnh có độ pH từ 3,8 - 4,4 là do một loại vi khuẩn thường trú Doderlein giống loại vi khuẩn Bacillus acidophilus; loại vi khuẩn này được nuôi dưỡng bằng glycogen của tế bào thượng bì âm đạo; vì vậy làm ảnh hưởng đến việc sản sinh ra acid lactic dẫn đến gây giảm độ toan âm đạo. Độ pH ở môi trường âm đạo thay đổi nên tạo điều kiện cho vi khuẩn trong âm đạo sinh sản và phát triển.
![]() |
Hình ảnh trùng roi dưới kinh hiển vi |
Trùng roi âm đạo chuyển từ vật chủ này sang vật chủ khác ở thể hoạt động và thường gặp nhiều ở phụ nữ lứa tuổi sinh đẻ, hiếm gặp ở các trẻ gái chưa dậy thì và ít gặp hơn ở phụ nữ đã mãn kinh. Chúng có thể tồn tại ở môi trường ngoại cảnh ẩm ướt trong một vài giờ và sinh sản vô tính bằng cách phân đôi theo chiều dọc. Phương thức ký sinh của trùng roi này là bám chặt vào niêm mạc âm đạo để khỏi bị đào thải và cử động bằng các roi.
Chu kỳ phát triển của trùng roi ở âm đạo thường phụ thuộc vào chu kỳ kinh nguyệt nhưng phát triển mạnh vào trước ngày thấy kinh và sau ngày thấy kinh; trong thời kỳ rụng trứng khó tìm thấy trùng roi qua xét nghiệm kiểm tra chất tiết ở âm đạo.
Ngoài vị trí ký sinh ở âm đạo, trùng roi còn ký sinh ở nhiều nơi khác trong cơ thể như: buồng trứng, vòi trứng, tử cung; có trường hợp chúng ký sinh ở đường tiết niệu như niệu đạo, niệu quản, bàng quang, bể thận. Tuy ký sinh ở nhiều nơi như vậy nhưng tỉ lệ trùng roi này ký sinh ở âm đạo vẫn cao nhất và đóng vai trò quan trọng trong bệnh phụ khoa.
Nếu bệnh nhân không được phát hiện, điều trị kịp thời thì diễn biến viêm nhiễm âm đạo lâu ngày có thể dẫn đến các biến chứng ở đường sinh dục do trùng roi ký sinh, cư trú ở đó và gây bệnh như viêm phần phụ, viêm loét cổ tử cung, vô sinh, viêm nhiễm đường tiết niệu.
Viêm phần phụ thường gặp là viêm buồng trứng, viêm vòi trứng làm cho bệnh nhân đau đớn, gây ra hiện tượng rong kinh. Viêm loét cổ tử cung làm cho bệnh nhân thấy đau, ngứa; khám thấy niêm mạc cổ tử cung đỏ, viêm tấy. Vô sinh cũng là một biến chứng thường gặp và nguyên nhân gây nên vô sinh đã được nhiều giả thuyết, nhiều nhà khoa học đề cập đến nhưng nguyên nhân hiện nay được công nhận là do trùng roi tiết ra chất nhầy tạo thành nút bao bọc và phong tỏa cổ tử cung, ngăn cản không cho tinh trùng vào thụ tinh nên không thụ thai được. Viêm nhiễm đường tiết niệu được biểu hiện bằng các triệu chứng viêm đường tiết niệu rõ hoặc không rõ; có trường hợp bệnh nhân đi tiểu tiện ra mủ, đi tiểu buốt và có thể tìm thấy trùng roi trong nước tiểu khi xét nghiệm.
Đối với việc phòng chống bệnh, khối cảm thụ được xác định là mọi lứa tuổi đều có thể mắc bệnh nhưng chủ yếu là người trưởng thành, đã có quan hệ tình dục. Trong số những người trưởng thành thì nhóm có hành vi nguy cơ cao như sinh hoạt tình dục bừa bãi, tình dục không an toàn sẽ bị mắc bệnh cao hơn. Vì vậy, việc phòng chống bệnh trùng roi âm đạo giống với việc phòng chống một bệnh lây truyền qua đường tình dục.
Theo kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới, nếu việc phòng chống có chiến lược, mục tiêu và hoạt động đúng thì sự khống chế các bệnh lây truyền qua đường tình dục rất có hiệu quả, trong đó có bệnh trùng roi âm đạo. Hai mục tiêu cơ bản của chiến lược phòng chống các bệnh lây truyền qua đường tình dục là cắt đứt đường lây truyền bằng những biện pháp đối với nguồn lây nhiễm bệnh và phát hiện, điều trị tốt các bệnh nhân để đề phòng các biến chứng, những diễn biến xấu có thể xảy ra. Nhằm thực hiện được hai mục tiêu cơ bản này, chiến lược phòng chống bệnh lây truyền qua đường tình dục, trong đó có bệnh trùng roi âm đạo là phải phát hiện sớm, điều trị sớm; quản lý các trường hợp bệnh; truyền thông giáo dục sức khỏe; giáo dục cộng đồng và tư vấn về y tế.
Ngoài ra, chúng có thể lây nhiễm gián tiếp qua nước rửa, đồ dùng, quần áo, khăn lau, bể tắm, sinh hoạt mất vệ sinh... Trong đó, đường lây nhiễm quan trọng nhất là quan hệ tình dục. Nam giới có khả năng lây sang nữ giới và ngược lại, đồng thời nhân viên y tế cũng có thể làm lây nhiễm trong quá trình khám bệnh hoặc làm thủ thuật đường sinh dục. Cần quan tâm đến vấn đề này để phát hiện, điều trị kịp thời, không để bệnh diễn biến thành mãn tính.