Hưng Yên: Khó khăn đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện

15/08/2019 16:21

Tính đến ngày 31/5/2019, tỉnh Hưng Yên có 1.049 người nghiện ma tuý có hồ sơ quản lý. Dù đã đạt nhiều thành tích trong công tác cai nghiện, song quá trình đưa người nghiện đi cai còn gặp khó khăn, vướng mắc. Nếu không tháo gỡ kịp thời sẽ gây ảnh hưởng đến nhiệm vụ phòng, chống ma tuý (PCMT) trên miền quê Phố Hiến.

Đoàn viên, thanh thiếu niên tỉnh Hưng Yên ký giao ước thi đua PCMT trong cộng đồng

Luật Xử lý vi phạm hành chính (XLVPHC) và Nghị định 136/2016/NĐ-CP, ngày 30/10/2016 của Chính phủ quy định bổ sung một số điều của Nghị định 221/2013/NĐ-CP đã quy định trường hợp áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc (CNBB) là người bị áp dụng biện pháp CNBB đều phải từ đủ 18 tuổi trở lên, song do tệ nạn ma tuý đang lan tràn, không ít thanh thiếu niên mắc nghiện.

Theo Luật PCMT, người nghiện từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi đã được cai nghiện tại gia đình, cộng đồng hoặc được giáo dục nhiều lần tại xã, phường, thị trấn vẫn còn nghiện, hoặc không có nơi cư trú ổn định thì đưa vào cơ sở cai nghiện dành riêng cho họ. Nếu tự nguyện xin đi cai hay có đơn của gia đình thì đưa vào cơ sở cai nghiện dành riêng cho lứa tuổi này. Người nghiện già yếu, đau ốm, có con nhỏ hay là lao động chính nếu đi cai nghiện tập trung sẽ đảo lộn cuộc sống của gia đình họ. Trong trường hợp này, cần tổ chức cai nghiện tại gia đình, cộng đồng, điều trị thay thế bằng methadone.

Việc lập hồ sơ đi CNBB phải trải qua nhiều bước có sự phối hợp giữa các ngành Công an, Tư pháp, Lao động - Thương binh và Xã hội (LĐTBXH), Toà án nhân dân (TAND), do Công an cấp xã, huyện thực hiện rồi chuyển sang các ngành này với nhiều thủ tục xét duyệt, khiến người nghiện lợi dụng bỏ trốn.

Luật PCMT quy định thẩm quyền đưa người nghiện từ đủ 18 tuổi trở lên đi CNBB thuộc về Chủ tịch UBND cấp huyện. Còn theo Luật XLVPHC, thẩm quyền thuộc về TAND cấp huyện. Như vậy với người nghiện dưới 18 tuổi, liệu có cần áp dụng theo Luật PCMT để làm giảm bớt tính phức tạp khi lập hồ sơ.

Sau khi hoàn thành việc lập hồ sơ, cơ quan chức năng phải thông báo cho người bị đề nghị áp dụng biện pháp đưa đi CNBB hoặc người đại diện hợp pháp. Trong 05 ngày, hồ sơ được chuyển sang Phòng Tư pháp cấp huyện để Trưởng phòng kiểm tra tính pháp lý trước khi chuyển sang Phòng LĐTBXH cùng cấp. Trong thời hạn 07 ngày, Trưởng phòng LĐTBXH quyết định việc chuyển hồ sơ sang TAND cùng cấp để đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở CNBB. Thực tế quá trình lập đến hoàn thành hồ sơ, chuyển cơ quan hữu quan xét duyệt mất khoảng 01 tháng, dẫn đến người nghiện bỏ trốn phải truy tìm mất nhiều công sức.

Luật PCMT quy định tiêu chí xác định tình trạng nghiện là phải lệ thuộc vào ma tuý là sau 24h phải xuất hiện hội chứng cai. Luật XLVPHC lại không cho phép việc tạm giữ người trong thời gian này. Việc chẩn đoán xác định tình trạng nghiện thực hiện theo Quyết định 5075, Quyết định 3556 của Bộ Y tế và Thông tư 17/TTLB-BYT-BLĐTBXH-BCA của liên Bộ: Y tế, LĐTBXH, Công an. Nếu đối tượng không tự giác khai báo, che giấu hành vi vi phạm sẽ khó cho việc đánh giá đúng tình hình.

Người sử dụng ma tuý tổng hợp nhóm amphetamine trong 72h đều không xuất hiện hội chứng cai. Một số thì ban đầu xét nghiệm nước tiểu cho kết quả dương tính với ma tuý nhưng sau 24h xét nghiệm lại thì lại có kết quả âm tính nên không đủ điều kiện kết luận có nghiện hay không. Thông tư 17 quy định thời gian xác định tối đa 03 ngày với nhóm ma tuý opiats và 05 ngày với nhóm amphetamine. Do ma tuý nhóm amphetamine tồn tại lâu trong cơ thể nên việc xác định sẽ lâu và phức tạp trong điều kiện cơ sở y tế thiếu cả bác sỹ có chuyên môn và các trang bị phương tiện cần thiết. Thực tế ở nhiều nơi, trạm trưởng y tế cấp xã chưa được tập huấn, cấp chứng chỉ điều trị cắt cơn do Sở Y tế cấp theo quy định của Luật Khám, chữa bệnh, vì vậy không đáp ứng được yêu cầu lập hồ sơ đưa người vào cơ sở CNBB.

Khi lập hồ sơ xong, người nghiện được quyền đọc, sao chép lại. Do nhận thức pháp luật còn thấp nên khi biết bị “đưa vào tầm ngắm”, họ sẽ bỏ trốn trước khi quyết định có hiệu lực. Việc xác định nơi cư trú ổn định của người nghiện  tốn nhiều thời gian, công sức xác minh, làm ảnh hưởng đến việc hoàn thiện hồ sơ. Thực tế, họ thường ưa “xê dịch”, trong khi chưa có hướng dẫn cụ thể, dẫn đến cách hiểu khác nhau giữa các cơ quan và cũng chưa có quy định xử lý người nghiện bỏ trốn trong thời gian này.

Trường hợp người vi phạm có nơi cư trú không thuộc xã, phường, thị trấn nơi xảy ra vi phạm thì phải bàn giao người và biên bản cho cơ quan công an cấp xã nơi họ cư trú để tiến hành lập hồ sơ đưa vào cơ sở CNBB. Tuy nhiên việc trao đổi thông tin giữa công an cấp xã chưa chặt chẽ, còn đùn đẩy trách nhiệm. Nếu người vi phạm đến địa bàn xa vi phạm, việc trao đổi thông tin về lai lịch, nơi cư trú còn phức tạp hơn, trong khi chỉ được tạm giữ trong vòng 24h.

Người nghiện bỏ trốn khi có quyết định của toà án, buộc cơ quan công an phải ra quyết định truy tìm. Nhưng sau một thời gian bỏ trốn, họ quay về nếu xét nghiệm cho kết quả âm tính với ma tuý, thì vẫn chưa có quy định cụ thể về việc có đưa họ đi cai nữa không. Các ngành cần thương lượng với toà án để tìm tiếng nói chung.

Trước những khó khăn, bất cập trên lực lượng chức năng tỉnh Hưng Yên đề xuất các bộ, ngành trung ương kiến nghị Chính phủ, Quốc hội sửa đổi, bổ sung các văn bản luật. Đối với người nghiện trên 18 tuổi, cần bỏ phần đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn mà vẫn còn nghiện hoặc chưa bị áp dụng biện pháp này nhưng không có nơi cư trú ổn định. Đề xuất giao người nghiện trong thời gian chờ lập hồ sơ cho gia đình và các tổ chức đoàn thể, đồng thời gắn trách nhiệm cụ thể cho người quản lý nếu để họ bỏ trốn.

Đối với người nghiện từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi, cần quy định rõ về thẩm quyền của toà án trong việc áp dụng biện pháp CNBB, cũng như cho phép cơ sở cai nghiện được tiếp nhận, điều trị, cắt cơn với đặc thù riêng. Luật PCMT cần bổ sung thêm chương can thiệp dự phòng nghiện ma tuý, bỏ quy định quản lý sau cai với người đã hết thời gian cai nghiện tập trung.

Người ở địa phương này đến nơi khác có hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý, thay vì bàn giao người và biên bản cho công an cấp xã nơi họ cư trú thì bàn giao cho công an cấp xã hoặc huyện nơi xảy ra vi phạm.

Bổ sung thẩm quyền cho công an cấp huyện và tỉnh đang trong quá trình điều tra vụ việc, nếu phát hiện đối tượng sử dụng trái phép ma tuý hoặc có biểu hiện nghiện cần lập biên bản, xác minh, lập hồ sơ đi CNBB.

Trong thực tế, người nghiện thường sử dụng ma tuý lén lút ở nơi giáp ranh, vắng vẻ khiến việc phát hiện, xử phạt rất vất vả. Vì vậy, cần bỏ biên bản xử phạt hành chính đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý để việc lập hồ sơ bớt phức tạp. Cần bỏ bản tường trình của người có hành vi vi phạm hoặc người đại diện hợp pháp, vì nhiều trường hợp bị bắt giữ đã không khai báo thành khẩn gây khó khăn trong việc hoàn thiện hồ sơ.

Sửa đổi, bổ sung về thẩm quyền xác định tình trạng nghiện cho cơ sở y tế cấp huyện trở lên, do trạm y tế cấp xã không đáp ứng được điều này. Đề xuất Bộ Y tế sớm ban hành phác đồ chẩn đoán, điều trị nghiện các chất ma tuý khác như: cocain, ketamin, cần sa, “cỏ Mỹ”... Với người nghiện có dấu hiệu loạn thần “ngáo đá”, cần có quy định riêng theo hướng rút ngắn thời gian từ khi lập hồ sơ đến lúc đưa đi CNBB.

Mở rộng hình thức cai nghiện tự nguyện, tạo tâm lý thoải mái giúp người nghiện xoá bỏ mặc cảm, gắn với dậy nghề, hỗ trợ vay vốn, giải quyết việc làm  tạo thu nhập ổn định giúp giảm tái nghiện, từ đó giảm số người CNBB theo xu thế chung của thế giới.

}
Top