Kinh nghiệm quốc tế về thu thập chứng cứ và xử lý các vụ xâm hại tình dục trẻ em

27/08/2018 14:18

Thu thập chứng cứ là một trong những trở ngại lớn trong quá trình xử lý các vụ án xâm hại tình dục (XHTD) trẻ em. Nghiên cứu Xét xử tội hiếp dâm - Hiểu cách ứng phó của hệ thống tư pháp hình sự đối với bạo lực tình dục ở Thái Lan và Việt Nam năm 2017 chỉ ra: Đa số hành vi XHTD diễn ra ở những địa điểm riêng tư như ở nhà, phòng khách sạn, do vậy thường không có nhân chứng.

Ảnh minh họa. Nguồn Internet

Trong khi đó, theo nhiều cán bộ tiến hành tố tụng, họ không thể giải quyết vụ án nếu không có bằng chứng giám định hoặc lời khai nhân chứng. Nạn nhân/nhân chứng trẻ em còn gặp phải nhiều trở ngại do những định kiến cho rằng trẻ em là nhân chứng không đáng tin cậy, hay tưởng tượng, dễ bị người khác gây ảnh hưởng khi khai báo, thường đưa ra thông tin không chính xác. Do chưa trưởng thành đầy đủ, các em thiếu kỹ năng và kinh nghiệm để tham gia tố tụng hiệu quả, ảnh hưởng đến chất lượng lời khai.
 
Nhận thức được những rào cản mà nạn nhân/nhân chứng trẻ em gặp phải trong quá trình tố tụng, đặc biệt là trong việc cung cấp chứng cứ trong các vụ án XHTD, pháp luật của nhiều quốc gia trên thế giới có những quy định đặc thù để khắc phục những rào cản này và hỗ trợ trẻ em là nạn nhân nhân chứng khai báo, tham gia đầy đủ vào quá trình tố tụng, cụ thể:
 
Philippines: Ban hành Quy tắc thẩm tra nhân chứng trẻ em
 
Tòa tối cao của Philippines ban hành Quy tắc thẩm tra nhân chứng trẻ em (có hiệu lực ngày 15/12/2000), áp dụng đối với mọi hoạt động thẩm tra người dưới 18 tuổi là nạn nhân, nhân chứng hoặc bị can/bị cáo trong các vụ án hình sự và phi hình sự,  nhằm thiết lập và duy trì một môi trường cho phép trẻ em cung cấp chứng cứ hoàn chỉnh, đáng tin cậy, giảm thiểu tổn thương tâm lý, khuyến khích trẻ em khai báo trong quá trình tố tụng, và hỗ trợ việc xác định sự thật.
 
Theo Quy tắc này, mọi trẻ em đều phải được giả định là có năng lực làm chứng. Tuy nhiên, Tòa án có thể tự mình hoặc theo yêu cầu của một bên đương sự, kiểm tra năng lực làm chứng của trẻ em khi thấy có nghi ngờ đáng kể về khả năng của trẻ em trong việc nhận thức, ghi nhớ, giao tiếp, phân biệt thật giả và hiểu được nghĩa vụ nói sự thật trước tòa.
 
Quy tắc này cũng nêu rõ, nếu lời khai của trẻ em đáng tin cậy thì được coi là đủ để hỗ trợ cho việc xác định sự thật, đưa ra quyết định hoặc phán quyết, trên cơ sở tuân thủ các tiêu chuẩn về chứng cứ trong vụ án hình sự hoặc phi hình sự, mà không cần phải có chứng cứ củng cố.
 
Bên cạnh đó, quy tắc này còn bao gồm nhiều quy định hết sức cụ thể để bảo đảm lợi ích tốt nhất cho trẻ em, hỗ trợ trẻ em khai báo hiệu quả: Chỉ định giám hộ theo pháp luật cho trẻ em là người có trách nhiệm bảo vệ lợi ích tốt nhất cho trẻ em; Quy định có phiên dịch cho trẻ em; Cho phép dùng người hỗ trợ đặt câu hỏi cho trẻ em; Cho phép sự tham gia của người hỗ trợ tâm lý cho trẻ em; Tạo không khí thân thiện trong phòng xử án; Quy định thời gian thích hợp thẩm tra trẻ em; Cho phép nghỉ giải lao trong quá trình thẩm tra; Cho phép sử dụng các công cụ hỗ trợ thẩm tra (búp bê giải phẫu, vẽ); Hạn chế việc tiếp cận trẻ em; Yêu cầu công chúng dời phòng xử án khi trẻ em khai báo; Sử dụng đường truyền video trực tiếp khi trẻ em là nạn nhân, nhân chứng khai báo; Sử dụng màn che, gương một chiều để tránh cho trẻ em là nạn nhân nhìn thấy bị cáo.
 
Malaysia: Luật về các tội xâm phạm tình dục đối với trẻ em
 
Luật số 792, năm 2017 của Malaysia có một số điều luật quy định về năng lực làm chứng của trẻ em và việc thu thập chứng cứ đối với các vụ án xâm hại trẻ em.
 
Luật này quy định rõ trẻ em được giả định là đủ năng lực để cung cấp chứng cứ, trừ trường hợp tòa án có ý kiến khác. Luật cho phép dựa trên chứng cứ do trẻ em đưa ra sau khi đã tuyên thệ, mà không cần có chứng cứ củng cố, để kết án bị cáo đối với các tội xâm hại trẻ em do Luật này quy định, hoặc một số tội xâm hại trẻ em quy định trong các luật khác.
 
Malaysia, ngoài Bộ luật hình sự còn có Luật về các tội xâm phạm tình dục đối với trẻ em.
 
Ở các nước ASEAN, các hành vi XHTD trẻ em thường bị trừng trị theo quy định của Bộ luật Hình sự. Indonesia còn quy định các tội danh XHTD trẻ em và hình phạt đối với người phạm tội trong Luật Trẻ em.
 
Các hình phạt phổ biến đối với tội XHTD trẻ em bao gồm: Tù có thời hạn; Tù có thời hạn kèm phạt roi; Tù có thời hạn kèm phạt tiền; Tù chung thân (Philippines); Tử hình (Malaysia, Indonesia); Biện pháp “thiến” hóa học: Năm 2011, Hàn Quốc là nước đầu tiên ở châu Á quy định biện pháp này. Năm 2016, Indonesia cũng thực hiện biện pháp này sau một vụ hiếp dâm tập thể và giết người mà nạn nhân là một học sinh 14 tuổi.
 
Ngoài việc truy tố thủ phạm XHTD trẻ em, các can thiệp tư pháp còn bao gồm các biện pháp để bảo vệ nạn nhân trẻ em, trong đó, trong trường hợp thủ phạm là người trong gia đình thì có thể tách trẻ em khỏi thủ phạm bằng cách buộc thủ phạm phải sinh sống ở chỗ khác hoặc đưa trẻ em đến nơi ở khác. Tuy nhiên, việc cách ly trẻ em khỏi cha mẹ chỉ là giải pháp sau cùng và các quốc gia trên thế giới ngày càng có xu hướng tránh đưa trẻ em bị xâm hại tại gia đình vào cơ sở chăm sóc tập trung. Điều này đòi hỏi phải phát triển nhiều loại hình dịch vụ để hỗ trợ chăm sóc thay thế trong môi trường gia đình cũng như thúc đẩy đoàn tụ gia đình và cộng đồng cho trẻ em càng sớm càng tốt.

}
Top