Nhìn lại 25 năm công tác phòng, chống tệ nạn xã hội

25/01/2019 16:43

Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, cùng với sự nghiệp đổi mới, phát triển kinh tế-xã hội, các tệ nạn xã hội, đặc biệt là ma túy, mại dâm phát triển trên diện rộng và có xu hướng ngày càng phức tạp, gây hậu quả nhiều mặt, ảnh hưởng đến an ninh trật tự xã hội và đời sống nhân dân.

Một số cá nhân được tặng bằng khen vì đã có những cống hiến trong công tác PCTNXH-Ảnh: Nhật Thy

Trước tình hình đó, nhằm tăng cường công tác quản lí nhà nước về lĩnh vực phòng, chống ma túy, mại dâm, ngày 11/01/1994, Chính phủ đã ban hành Nghị định 01-CP thành lập Cục Phòng, chống tệ nạn xã hội (PCTNXH) với nhiệm vụ giúp Bộ trưởng Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội thực hiện chức năng quản lý nhà nước về phòng chống tệ nạn mại dâm, cai nghiện ma túy, quản lý sau cai nghiện, hỗ trợ nạn nhân bị mua bán và phòng, chống HIV/AIDS thuộc phạm vi trách nhiệm của nghình.

Mặc dù mới thành lập, Cục PCTNXH đã khẩn trương tham mưu cho Chính phủ, Bộ xây dựng quan điểm, chính sách, pháp luật, hệ thống giải pháp, biện pháp xây dựng đội ngũ cán bộ PCTNXH các cấp, trong đó, nòng cốt là hệ thống cán bộ chuyên trách PCTNXH, Cơ sở chữa bệnh với những giải pháp kịp thời, góp phần quan trọng đẩy lùi tệ nạn xã hội.

Từ khi có Nghị định thành lập Cục PCTNXH, đến cuối năm 1999, cả nước đã thành lập hơn 20 Chi cục/Phòng PCTNXH ở các địa phương trọng điểm. Các tỉnh, thành phố chưa thành lập cơ quan chuyên trách, cán bộ phòng chống tệ nạn xã hội được củng cố, bố trí tại các Phòng Bảo trợ xã hội.

Về công tác điều trị, cai nghiện, lúc đầu chủ yếu cai nghiện ở các Trung tâm bảo trợ xã hội, các cơ sở y tế và gia đình, tới năm 1999, toàn quốc đã có hơn 60 Cơ sở chữa bệnh được thành lập với hơn 1.200 cán bộ, nhân viên, mỗi năm cai nghiện cho hàng chục nghìn người. Trước đó, năm 1995, Cục đã tham mưu tổ chức tổng điều tra người nghiện ma túy trên toàn quốc để có kế hoạch phòng, chống ma túy và cai nghiện phù hợp.

Phối hợp, lồng ghép phòng, chống tệ nạn xã hội

Tại kì họp thứ 8 ngày 9/12/2000, Quốc hội khóa X đã thông qua Luật Phòng, chống ma túy (số 33/2000/QH10) quy định trách nhiệm phòng chống ma túy của cá nhân, gia đình, cơ quan và tổ chức. Trong đó, nghình Lao động-Thương binh và Xã hội được giao nhiệm vụ quản lý nhà nước về điều trị, cai nghiện ma túy. Nhiều điểm mới như công tác xã hội hóa nguồn lực cho công tác cai nghiện; hình thức cai nghiện đa dạng, phù hợp; thẩm quyền quyết định đưa người cai nghiện vào cơ sở bắt buộc... được triển khai thống nhất trong cả nước.

Trước diễn biến phức tạp của tệ nạn mại dâm và kinh nghiệm tích lũy trong gần 10 năm, Cục tiếp tục tham mưu Bộ, trình cấp có thẩm quyền ban hành Pháp lệnh Phòng, chống mại dâm (số 10/2003/PL-UBTVQH11 ngày 11/3/2003), đây là văn bản được đánh giá là tương đối đồng bộ cả về quan điểm, chủ trương, biện pháp, phân công trách nhiệm, cơ chế điều phối, chế tài xử lý. Pháp lệnh ra đời là một dấu mốc quan trọng trong công tác phòng, chống mại dâm. Lần đầu tiên, một văn bản phòng, chống mại dâm có giá trị pháp lý cao nhất của Nhà nước được ban hành, góp phần nâng cao nhận thức về phòng, chống mại dâm trong tầng lớp nhân dân; quan điểm về phòng, chống tệ nạn mại dâm “lấy phòng ngừa là chính” nhằm bảo vệ thuần phong, mỹ tục và truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc ta, được hầu hết các nghình, các cấp và nhân dân đồng tình, ủng hộ.

Mạng lưới cơ sở chữa bệnh cho gái mại dâm, người nghiện ma túy được tổ chức ở 53 tỉnh, thành phố với 60 Trung tâm, có thể quản lý và chữa trị cho 7-8 nghìn lượt đối tượng/năm. Ngoài ra, công tác phòng, chống tệ nạn xã hội còn được phối hợp, lồng ghép với các chương trình khác như xóa đói, giảm nghèo; giải quyết việc làm; cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư”; phong trào “Xây dựng xã, phường lành mạnh không có tệ nạn ma túy, mại dâm”… qua đó, nhiều mô hình, điển hình tốt xuất hiện và được nhân rộng, phổ biến, góp phần ngăn chặn có hiệu quả tệ nạn xã hội ở từng địa phương, cơ sở.

Xây dựng hệ thống pháp luật toàn diện về cai nghiện và quản lý sau cai

Tính đến tháng 5/2005, cả nước có gần 172 nghìn người nghiện ma túy có hồ sơ quản lý, trong đó khoảng 36 nghìn người được quản lý trong các trại giam, cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng… (tăng 32,18% so với năm 2000); trên 60% người nhiễm HIV/AIDS do tiêm chích ma túy; 30.990 gái mại dâm có hồ sơ quản lý và trong số đó, có một tỷ lệ không nhỏ người nghiện ma túy, nhiễm HIV; hàng nghìn phụ nữ và trẻ em là nạn nhân của các đường dây mua bán người vì mục đích mại dâm; tình trạng trẻ em bị xâm hại có xu hướng tăng.

Từ thực trạng trên, Cục PCTNXH đã tích cực tham mưu cho Bộ và phối hợp với các Bộ, nghình liên quan đề xuất với Quốc hội, Chính phủ ban hành hệ thống văn bản pháp luật toàn diện về cai nghiện và quản lý sau cai, bao gồm: Luật sửa đổi, bổ sung Luật Phòng, chống ma túy (số 16/2008/QH12 ngày 03/6/2008) và 5 Nghị định của Chính phủ.

Kết quả, trong 5 năm, cả nước đã tiếp nhận và điều trị, cai nghiện cho gần 250 nghìn lượt người, đạt 170,4% so với kế hoạch, tăng hơn 43 nghìn người so với giai đoạn trước, trong đó, có 50/63 tỉnh, thành phố đạt và vượt chỉ tiêu. Riêng các Trung tâm cai nghiện đã điều trị, cai nghiện cho hơn 169 nghìn lượt người, tăng hơn 70,4 % so với kế hoạch đề ra.

Công tác cai nghiện tại gia đình, cộng đồng cũng đạt được kết quả quan trọng. 48/63 tỉnh, thành phố đã xây dựng và triển khai chương trình, kế hoạch dài hạn với mục tiêu cụ thể. Trong 5 năm, đã tổ chức cai nghiện cho gần 81 nghìn lượt người, chiếm 32,4% tổng số người cai nghiện; 15 tỉnh, thành phố đã quy hoạch Trung tâm, khu vực quản lý sau cai; 28/63 tỉnh, thành phố đã hỗ trợ vay vốn, tạo việc làm cho 25.382 người sau cai.

Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ về thí điểm điều trị các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc Methadone, trong 2 năm từ 2008 đến 2010, 8 cơ sở tại TP Hồ Chí Minh, Hà Nội và Hải Phòng đã điều trị cho 2.111 người và đúc rút kinh nghiệm trong điều trị bằng Methadone kết hợp với tư vấn tâm lý, giải quyết nhu cầu việc làm cho người cai nghiện.

Trong lĩnh vực phòng, chống mại dâm, Cục tiếp tục tham mưu, xây dựng trình Bộ, Chính phủ các văn bản quy phạm pháp luật về phòng, chống mại dâm theo Pháp lệnh Phòng, chống mại dâm năm 2003. Một trong những nội dung quan trong được triển khai thực hiện Pháp lệnh Phòng, chống mại dâm trong giai đoạn này là thực hiện Chương trình ngăn ngừa và giải quyết tình trạng trẻ em lang thang, trẻ em bị xâm hại tình dục và trẻ em phải lao động nặng nhọc trong điều kiện độc hại.

Chương trình đã đạt được một số kết quả đáng ghi nhận như công tác tuyên truyền, giáo dục được đẩy mạnh một bước; công tác đấu tranh, xét xử và hỗ trợ tái hoà nhập cộng đồng cho trẻ em là nạn nhân đã được quan tâm đúng mức.

Đặc biệt, đã hình thành và nâng cao năng lực về phòng chống xâm hại tình dục trẻ em cho đội ngũ cán bộ chuyên trách cấp tỉnh, cấp huyện, cán bộ kiêm nhiệm cấp xã và xây dựng được một số mô hình phòng ngừa, hỗ trợ trẻ em bị xâm hại tình dục.  

Tăng cường tính pháp lý, công khai, minh bạch

Tiếp tục thực hiện Luật Phòng, chống ma túy (năm 2000), Luật sửa đổi, bổ sung Luật Phòng, chống ma túy (năm 2008) và Luật Xử lý vi phạm hành chính (20/6/2012) thay thế Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính (năm 1995), Cục PCTNXH tham mưu cho Bộ trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành 1 Nghị định, 1 Quyết định và 6 Thông tư tạo hành lang pháp lý thuận lợi trong công tác cai nghiện ma túy và quản lý sau cai. Theo quy định, thẩm quyền ra quyết định đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thuộc Tòa án nhân dân cấp huyện. Điều này đã góp phần tăng cường tính pháp lý, công khai, minh bạch, khắc phục tình trạng đơn phương quyết định của các cơ quan hành chính trước đây.

Tiếp đó, ngày 27/12/2013, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 2596/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Đổi mới công tác cai nghiện ma túy ở Việt Nam đến năm 2020”, theo đó, quan điểm về nghiện ma túy, định hướng công tác cai nghiện ma túy được thay đổi phù hợp với nhận thức của thế giới và phù hợp với tình hình.

Kết quả, từ 2011-2014, cả nước đã tổ chức quản lý, cai nghiện cho 189.724 lượt người. Trung bình mỗi năm cai nghiện cho khoảng 47 nghìn người nghiện có hồ sơ quản lý, chiếm 25 %; quản lý sai cai nghiện cho 58.873 lượt người, trong đó: tại các Trung tâm 15.615 người; tại nơi cư trú 43.528 người. Tổ chức dạy văn hóa cho 22.989 người có nhu cầu, dạy nghề cho 42.570 người, hỗ trợ vốn vay, tạo việc làm cho 15.292 người.

Về công tác phòng, chống mại dâm, từ khi Luật Xử lý vi phạm hành chính được ban hành, đây cũng chính là thời điểm thay đổi quan trọng trong công tác phòng, chống mại dâm. Theo đó, không còn biện pháp xử lý người mại dâm bằng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh hoặc giáo dục tại xã, phường, thị trấn mà thay vào đó là tăng cường công tác hỗ trợ giảm hại cho người mại dâm, hỗ trợ hòa nhập cộng đồng, giúp họ có điều kiện tiếp cận với các dịch vụ xã hội ngoài cộng đồng.

Cục PCTNXH đã nghiên cứu những biện pháp quản lý, hỗ trợ phù hợp với tình hình mới, chỉ đạo các địa phương xây dựng mô hình hỗ trợ tại cộng đồng đối với người bán dâm để có thể cung cấp kịp thời các dịch vụ tư vấn tâm lý, pháp lý; khám, điều trị bệnh lây truyền qua đường tình dục; giáo dục kỹ năng sống, trợ giúp xã hội; hỗ trợ học nghề, việc làm, tiếp cận các nguồn vốn nhằm tạo cơ hội cho người bán dâm thay đổi công việc, hòa nhập cộng đồng bền vững.

Kết quả, đến năm 2014, cả nước đã xây dựng được 1.077 mô hình hỗ trợ dựa vào cộng đồng tại 50 tỉnh, thành phố, đồng thời huy động sự tham gia của các tổ chức phi chính phủ, tổ chức phát triển cộng đồng tham gia chăm sóc sức khỏe, giảm hại từ hoạt động mại dâm. Các mô hình đã phát huy tác dụng, hiệu quả to lớn: hỗ trợ, tư vấn cho 352.728 lượt người bán dâm; dạy nghề cho1.822 người; tạo việc làm cho 1.212 người; tái hòa nhập cộng đồng cho 2.601 người; hỗ trợ vay vốn cho 1.227 người với tổng số tiền 4.779 triệu đồng.

Đối với công tác phòng, chống mua bán người, năm 2011, Cục PCTNXH tham gia xây dựng Luật phòng, chống mua bán người cùng các Nghị định về tiếp nhận, tái hòa nhập cho nạn nhân bị mua bán trở về; trình Bộ trưởng ban hành Đề án “Tiếp nhận, xác minh, bảo vệ và hỗ trợ nạn nhân bị mua bán trở về giai đoạn 2012-2015” nhằm nâng cao hiệu quả công tác tiếp nhận, xác minh, bảo vệ và hỗ trợ nạn nhân bị mua bán trở về; tạo các điều kiện cho nạn nhân bị mua bán trở về được tiếp cận được các dịch vụ xã hội cơ bản, hòa nhập với cộng đồng. 

Tiếp tục đổi mới toàn diện công tác phòng, chống tệ nạn xã hội

Trong lĩnh vực điều trị, cai nghiện ma túy, đây là giai đoạn tình hình tệ nạn ma túy vẫn có chiều hướng gia tăng, phức tạp và tội phạm có liên quan ngày càng hoạt động tinh vi, khó kiểm soát. Nếu như trước đây, đại đa số người sử dụng các chất dạng thuốc phiện (Opiats) thì hiện nay, phần lớn chuyển sang dùng ma túy tổng hợp (ATS).

Theo báo cáo, thống kê của Bộ Công an, tính đến 15/5/2018, cả nước có 224.690 người nghiện ma túy có hồ sơ quản lý, tăng 2.108 người so với năm 2017 (222.582 người). Tỷ lệ người sử dụng ATS chiếm từ 60-70%, đặc biệt, tại các tỉnh khu vực miền Trung và Nam Bộ, tỷ lệ này lên tới 70-85%...

Tiếp tục thực hiện Quyết định số 2596/QĐ-TTg ngày 27/12/2013 của Thủ tướng Chính phủ, công tác điều trị, cai nghiện được tổ chức, thực hiện với các giải pháp tổng thể, gồm: Các can thiệp hỗ trợ về y tế, tâm lý, xã hội làm thay đổi nhận thức, hành vi nhằm giảm tác hại của nghiện ma túy và giảm tình trạng sử dụng ma túy trái phép; thực hiện đa dạng hóa các biện pháp và mô hình điều trị nghiện (điều trị tự nguyện tại gia đình, cộng đồng và điều trị nghiện bắt buộc tại Trung tâm Chữa bệnh-Giáo dục-Lao động xã hội). Tăng dần điều trị nghiện tự nguyện tại gia đình, cộng đồng, giảm dần điều trị nghiện bắt buộc tại các trung tâm với lộ trình phù hợp. Tạo điều kiện cho người cai nghiện dễ dàng tiếp cận với các dịch vụ phù hợp tại cộng đồng; Nhà nước có chính sách đầu tư nguồn lực và khuyến khích xã hội hóa công tác dự phòng và điều trị nghiện, hỗ trợ điều trị nghiện cho các đối tượng thuộc diện chính sách xã hội, đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa và vùng đặc biệt khó khăn.

Thực hiện Nghị quyết số 98/NQ-CP ngày 26/12/2014 của Chính phủ về việc tăng cường chỉ đạo công tác phòng, chống, kiểm soát cai nghiện ma túy trong tình hình mới, các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã hoàn thành việc chuyển đổi Trung tâm Chữa bệnh-Giáo dục-Lao động xã hội thành Cơ sở cai nghiện ma túy. Đến nay, cả nước có 105 cơ sở (giảm 18 cơ sở so với 2016), gồm: 6 cơ sở cai nghiện bắt buộc; 79 cơ sở cai nghiện tổng hợp; 18 cơ sở điều trị nghiện ma túy tự nguyện và Methadone; 2 cơ sở tiếp nhận người nghiện ma túy không có nơi cư trú ổn định

Về công tác phòng, chống mại dâm, tình hình tội phạm liên quan tới tệ nạn mại dâm ngày càng hoạt động tinh vi dưới nhiều hình thức. Lợi dụng sự phát triển của công nghệ và quá trình mở cửa hội nhập kinh tế với các nước trong khu vực và thế giới, các hình thức mại dâm sử dụng công nghệ cao được các đối tượng phạm tội lựa chọn sử dụng thông qua mạng internet, điện thoại thông minh, hệ thống máy tính, các kênh liên lạc trực tuyến…

Ngoài ra, còn có sự tham gia của người nước ngoài và đưa người ra nước ngoài hoạt động mại dâm. Nhiều đường dây mua bán dâm cao cấp (diễn viên, người mẫu…) được hình thành và tổ chức chặt chẽ. Điều này dẫn đến nhiều hệ lụy xã hội, khiến cho tình hình rất khó kiểm soát, xử lý.

Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội chỉ đạo các địa phương tiếp tục thí điểm các mô hình can thiệp giảm hại, phòng, chống bạo lực, tăng cường khả năng tiếp cận dịch vụ xã hội cho người bán dâm, hỗ trợ người bán dâm tái hòa nhập cộng đồng theo Quyết định số 361/QĐ-TTg. Đến nay, 41 tỉnh, thành phố đã triển khai thí điểm hoặc duy trì mô hình can thiệp giảm hại, phòng chống bạo lực, tăng cường khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cho người bán dâm.

Theo báo cáo của các địa phương, tính từ năm 2014 đến 2018, đã có 5.993 lượt người bán dâm được hỗ trợ từ các mô hình thí điểm. Riêng năm 2018, có 1.194/3.709 người bán dâm được hỗ trợ giảm hại và hòa nhập cộng đồng. Trong đó: 231 lượt người được hỗ trợ y tế, chăm sóc sức khỏe, cung cấp các dịch vụ về phòng, chống lây nhiễm HIV; tư vấn trợ giúp pháp lý cho 937 lượt người; 13 người được hỗ trợ học nghề và 13 người được vay vốn, tạo việc làm.

Về lĩnh vực phòng, chống mua bán người và hỗ trợ nạn nhân bị mua bán, theo thống kê, từ năm 2012-2017, cả nước có 3.090 người là nạn nhân và nghi bị mua bán, số trở về là 2.571 người. Nạn nhân chủ yếu là phụ nữ và trẻ em (chiếm hơn 90%), tập trung tại các vùng kinh tế khó khăn, vùng sâu, vùng xa (80%). Các nạn nhân bị mua bán chủ yếu đưa ra nước ngoài (chiếm trên 98%), trong đó, sang Trung Quốc trên 90%. Đa số nạn nhân bị cưỡng ép kết hôn, làm vợ, đẻ thuê, bóc lột tình dục, sức lao động… Một số nạn nhân là nam giới bị lừa bán nội tạng. Ngoài ra, nhiều trẻ em là học sinh đang theo tại các nhà trường, cơ sở giáo dục-nơi được xem là an toàn nhất cũng bị các đối tượng mua bán người nhắm đến, dẫn đến tình trạng mua bán trẻ em trở thành một vấn đề đáng báo động.

Theo quy định, nhiều chính sách hỗ trợ nạn nhân bị mua bán trở về thực hiện rất kịp thời và nhân văn tại các cơ sở bảo trợ xã hội và cộng đồng: 100% nạn nhân tiếp nhận được hỗ trợ ban đầu, tư vấn tâm lý, khám sức khỏe, hỗ trợ pháp lý; trên 50% nạn nhân được trợ cấp khó khăn, học văn hóa-học nghề, vay vốn lãi suất thấp để phát triển kinh tế, hòa nhập cộng đồng.

Tuy nhiên, trên thực tế, nhiều nơi chưa thực sự quan tâm, nhiều chính sách thực hiện chưa đồng bộ; mức hỗ trợ tiền ăn, khám bệnh trong thời gian tạm trú ở cơ sở bảo trợ xã hội còn thấp; thủ tục hỗ trợ khó khăn ban đầu, vay vốn còn rườm rà; cơ sở vật chất, trang thiết bị tại các cơ sở tiếp nhận nạn nhân còn thiếu thốn, hạn chế…

Nhằm hỗ trợ cho các nhóm yếu thế vươn lên trong cuộc sống, Cục PCTNXH đã tham mưu cho Bộ trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 29/2014/QĐ-TTg ngày 26/4/2014 về tín dụng đối với hộ gia đình và người nhiễm HIV, người sau cai nghiện ma túy, người điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế, người bán dâm hoàn lương.

Qua quá trình triển khai thí điểm tại 15 tỉnh, thành phố, tính đến cuối năm 2017, Ngân hàng Chính sách xã hội đã cho 504 cá nhân, hộ gia đình vay vốn với tổng số tiền 12.883 tỷ đồng. Trong đó, hộ gia đình người sau cai nghiện 246/504 hồ sơ (48,8%); hộ cá nhân, hộ gia đình người điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế 150/504 hồ sơ (29,76%); cá nhân, hộ gia đình người nghiện nhiễm HIV 84/504 hồ sơ (16,66%); cá nhân, hộ gia đình người bán dâm hoàn lương 21/504 hồ sơ (4,16%).

Chính sách tín dụng đối với 4 nhóm yếu thế là bước đột phá, mang đậm tính nhân văn của Đảng, Nhà nước, có tính xã hội sâu sắc, mang lại lợi ích không chỉ cho bản thân người yếu thế mà còn nhận được sự quan tâm của gia đình họ và đội ngũ cán bộ làm công tác phòng, chống tệ nạn xã hội.

Bên cạnh đó, hoạt động của Đội công tác xã hội tình nguyện các xã, phường, thị trấn tiếp tục duy trì. Hiện, có 42 tỉnh, thành phố đã thành lập 3.063 Đội công tác xã hội tình nguyện với 19.734 tình nguyện viên, triển khai nhiều hoạt động có ý nghĩa giúp đỡ người nghiện, người sau cai nghiện ma túy, người bán dâm hoàn lương, nạn nhân bị mua bán trở về hòa nhập cộng đồng học nghề, vay vốn, tạo việc làm ổn định cuộc sống… 

}
Top