Quan điểm xã hội về đồng tính và hôn nhân đồng giới

13/12/2012 14:00

Theo kết quả nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường, chỉ 13% số người được hỏi có kiến thức đầy đủ về nguyên nhân đồng tính, đặc biệt có đến 89% vẫn còn tình trạng kỳ thị đối với người đồng tính.

Ảnh Phan Hoàng.

Ngày 13/12, tại Hà Nội, Viện Nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường (iSEE) tổ chức Hội thảo “Quan điểm xã hội về đồng tính và hôn nhân đồng giới”.

Tại Hội thảo, đại diện Viện Nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường đã trình bày kết quả nghiên cứu mới nhất về quan điểm xã hội đối với đồng tính và hôn nhân đồng giới. Nhiên cứu do Viện Nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường tiến hành trong hai năm 2010 – 2011 trên quy mô khá lớn, với 854 người trả lời bảng hỏi (định lượng) và 31 người tham gia phỏng vấn sâu (định tính), tại các địa bàn Hà Nội, Hà Nam, thành phố Hồ Chí Minh và An Giang.

Kết quả nghiên cứu cho thấy, hiện nay hiểu biết của xã hội về đồng tính còn nhiều hạn chế. Chỉ 13% số người được hỏi có kiến thức đúng về nguyên nhân đồng tính, rằng đồng tính không phải là bệnh, không phải do lệch lạc về hành vi hay do tác động ngoại cảnh. Còn lại 87% số người được hỏi có một hay nhiều mảng kiến thức sai, đặc biệt là có tới 89% vẫn còn kỳ thị đối với người đồng tính.

Tuy nhiên, khi được hỏi ý kiến về các quyền của người đồng tính, đặc biệt là quyền chung sống và nhận con nuôi, thì mức độ ủng hộ là tương đối cao. 77% số người trả lời bảng hỏi cho rằng pháp luật cần bảo vệ các quyền của người đồng tính, 75% ủng hộ việc người đồng tính nhận con nuôi, và tất cả những người tham gia phỏng vấn sâu đều hoàn toàn ủng hộ quyền chung sống của các cặp đôi cùng giới.

TS. Nguyễn Thu Nam, cán bộ Viện Nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường nhận định, tỷ lệ ủng hộ cao đối với các quyền cơ bản của người đồng tính xuất phát từ sự ủng hộ của xã hội đối với quyền con người nói chung. Đi sâu vào quyền kết hôn, hiện còn là đặc quyền của người dị tính, mới thấy nhiều người vẫn đang sử dụng một thước đo duy nhất cho sự đa dạng của xã hội, đó là “Chủ nghĩa độc tôn dị tính”.

TS. Nguyễn Thu Nam phân tích, giống như nhiều xã hội khác, xã hội Việt Nam truyền thống đề cao “Chủ nghĩa độc tôn dị tính” – một hệ thống tư tưởng chỉ chấp nhận quan hệ tình yêu và tình dục giữa những người khác giới, gạt bỏ sự đa dạng của các xu hướng tình dục khác. Hậu quả của chủ nghĩa này là con người có thể kỳ thị và phân biệt đối xử với người đồng tính, song tính và chuyển giới một cách gần như vô thức, không nhận thấy sự bất hợp lý và bất bình đẳng trong thái độ và hành vi của mình.

Theo TS. Nguyễn Thu Nam, người ta không ủng hộ hôn nhân đồng giới bởi nhiều nguyên nhân. Có người cho rằng gia đình đồng giới không thể sinh con, cha mẹ đồng giới không thể nuôi dạy con tốt, và là thiểu số thì nên thích nghi theo số đông... Tất cả đều bắt nguồn từ mong muốn bảo vệ và duy trì hệ thống “độc tôn dị tính” này. Tuy nhiên, khi xã hội thay đổi và phát triển, những gì trước đây không được nhìn nhận thì ngày nay có thể được coi là quyền lựa chọn của cá nhân và không còn phải chịu nhiều kỳ thị xã hội.

Ông Lê Quang Bình, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường (iSEE) cũng khẳng định, các mô hình gia đình khác với gia đình truyền thống, và các xu hướng tính dục đa dạng cần được nhìn nhận và tôn trọng. Sự ủng hộ ngày càng cao của người dân Việt Nam đối với các quyền của người đồng tính cho thấy xu hướng tất yếu của phát triển là đề cao các quyền của cá nhân và sự đa dạng của xã hội.

}
Top