Thách thức phòng chống HIV/AIDS khi kinh phí bị cắt giảm
Trước tình hình viện trợ quốc tế cho phòng chống AIDS đang kết thúc dần ở Việt Nam, Chính phủ đã quyết định cho triển khai chuyển giao và kiện toàn các cơ sở điều trị ARV trên toàn quốc để tiến tới kê đơn điều trị ARV bằng bảo hiểm y tế từ tháng 1/2018. Đây là một chủ trương đúng đắn và kịp thời nhằm duy trì việc điều trị ARV suốt đời cho bệnh nhân, vừa có ý nghĩa nhân văn cao cả, vừa có ý nghĩa dự phòng chống lây nhiễm tích cực.
Tỷ lệ bệnh nhân HIV tham gia bảo hiểm y tế có xu hướng gia tăng-Ảnh minh họa
Cho đến nay đã có 271 phòng khám điều trị ngoại trú ARV (chiếm 67,5%) đã ký hợp đồng bảo hiểm y tế, trong đó 151 phòng khám điều trị ngoại trú đã tiến hành thanh toán các phí dịch vụ, thuốc liên quan điều trị ARV cho bệnh nhân. Hiện tại còn 130 phòng khám ngoại trú chưa ký hợp đồng bảo hiểm y tế, trong đó 43 phòng khám tại tuyến huyện 1 chức năng, 20 phòng khám nội trú tại trung tâm phòng chống AIDS cấp tỉnh, 25 phòng khám tại trung tâm y tế huyện 2 chức năng, 17 phòng khám ngoại trú tại bệnh viện huyện, 19 phòng khám điều trị ARV tại bệnh viện tỉnh. Điều đáng mừng là tỷ lệ bệnh nhân tham gia bảo hiểm y tế có xu hướng gia tăng ở phần lớn các tỉnh và có tới 64% bệnh nhân HIV/AIDS đang tham gia điều trị ARV có thẻ bảo hiểm y tế.
Ngoài ra các tỉnh đang xây dựng kế hoạch hỗ trợ mua bảo hiểm y tế cho bệnh nhân để thực hiện chủ trương của Thủ tướng Chính phủ là bảo đảm 100% bệnh nhân điều trị ARV có thẻ bảo hiểm y tế. Tuy nhiên một số bệnh nhân không tham gia bảo hiểm y tế vì sợ bị phân biệt, kỳ thị đối xử do sợ lộ danh tính, ngại chờ đợi khi phải khám bảo hiểm. Một số bệnh nhân khác do kinh tế khó khăn không đủ nguồn tài chính mua bảo hiểm y tế theo hộ gia đình. Một số người do thiếu giấy tờ tùy thân hoặc thông tin trên các giấy tờ có sự khác biệt, có tiền cũng không đủ điều kiện tham gia bảo hiểm ý tế.
Để tháo gỡ khó khăn trên, năm qua nhiều tỉnh đã cân đối ngân sách của địa phương để mua bảo hiểm ý tế cấp cho người nhiễm HIV. Hiện nay, Chương trình Phòng, chống HIV/AIDS quốc gia cũng đang rà soát nhu cầu bảo hiểm ý tế cho người nhiễm HIV của một số tỉnh khó khăn, để dùng nguồn kinh phí viện trợ quốc tế hỗ trợ trong thời gian đầu mới chuyển đổi nguồn lực để mua bảo hiểm y tế cho những bệnh nhân nghèo và những người cần được hỗ.
Mặc dù chương trình điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng Methadone chưa đạt được số lượng người tham nhưng đến nay, cả nước đã thiết lập được 294 cơ sở điều trị Methadone và đến hết tháng 7/2017 đã điều trị được cho 52.034 bệnh nhân, đạt 65% chỉ tiêu Thủ tướng chính phủ giao. Trong 6 tháng đầu năm 2017, Nhà nước tiếp tục mở rộng cấp phát thuốc Methadone tại tuyến xã ở 23 tỉnh có điều kiện đi lại khó khăn, chiếm 23% số bệnh nhân đang điều trị Methadone. Trong số 294 cơ sở điều trị Methadone có 25 cơ sở điều trị Methadone do ngành LĐTB&XH quản lý tại 16 tỉnh, thành phố. Năm 2015, triển khai thí điểm điều trị Methadone cho 29 bệnh nhân trong trại giam Phú Xuân tại tỉnh Thái nguyên, trong đó 15 bệnh nhân đã ra trại.
Có thể thấy, chủ trương điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện cho phạm nhân trong các trại giam đã được nhiều nước trên thế giới và trong khu vực áp dụng, nhưng ở nước ta, dù đã có quyết định của Chính phủ là đã tiến hành thí điểm trong một số tạm giam, nhưng do một số trở ngại về quan điểm, về cách thức tiến hành đến nay vẫn chưa mở rộng được. Người nghiện chất dạng thuốc phiện được điều trị Methadone bỏ trị có xu hướng gia tăng. Nhất là tại các tỉnh miền núi, do sống xa cơ sở điều trị, bệnh nhân đi lại khó khăn nên không duy trì đến nhận thuốc hằng ngày. Nhiều địa phương có hiện tượng xung đột giữa chỉ tiêu cai nghiện, hoặc phạm tội trong quá trình điều trị Methadone nên nhiều người nghiện đang điều trị Methadone bị bắt đi cai nghiện trập trung hay đi tù.
Mặc dù việc điều trị nghiện các dạng thuốc phiện bằng Methadone cho những kết quả to lớn nhưng do hoàn cảnh địa lý của nước ta nên ở nhiều địa phương, người nghiện phải đi lại xa xôi, ảnh hưởng đến việc làm ăn, sinh hoạt và điều trị nên tới đây, Bộ Y tế dự kiến sẽ thí điểm điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng Buprenophine. Đây là chất đồng vận bán phần với các chất dạng thuốc phiện, có tác dụng và hiệu quả điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện (CDTP) tương tự như Methadone nhưng an toàn hơn. Liều thấp được sử dụng để điều trị đau cấp và mạn tính; liều cao được sử dụng để điều trị nghiện các CDTP bất hợp pháp.Thời gian bán hủy kéo dài (từ 20-73 giờ), nên kéo dài thời gian tác dụng của thuốc, do đó bệnh nhân chỉ cần uống thuốc 3-4 lần/tuần là đủ hiệu quả điều trị cho một tuần và hầu như không gây tăng dung nạp.
Theo báo cáo của nhiều nước trên thế giới, điều trị nghiện các CDTP bằng thuốc Buprenorphine có hiệu quả đáng ghi nhận trong việc giảm lây nhiễm HIV trong nhóm nghiện chích ma túy, giảm nguy cơ quá liều do sử dụng ma túy trong nhóm bệnh nhân tham gia điều trị. Cục Phòng, chống HIV/AIDS cho biết, ngành y tế phấn đấu triển khai điều trị Buprenorphine cho khoảng 500 bệnh nhân tại một số tỉnh miền núi (Điện Biên, Nghệ An, Sơn La) trong năm 2017. Năm 2018 tiếp tục duy trì và mở rộng điều trị Buprenorphine cho khoảng 2.000 bệnh nhân (ở Điện Biên, Sơn La, Nghệ An, Thanh Hóa, Hòa Bình, Yên Bái và Lai Châu); tổ chức điều trị Buprenorphine lồng ghép vào hệ thống Methadone sẵn có.
Trong năm 2017, lần đầu tiên Việt Nam triển khai điều trị dự phòng trước phơi nhiễm (PREP) cho nhóm có hành vi nguy cơ cao nhiễm HIV, đặc biệt nhóm quan hệ tình dục đồng tính nam (MSM). Đây là hoạt động thí điểm, để xác định nhu cầu và cách thức triển khai mở rộng trên toàn quốc trong tương lai. Chương trình phòng chống AIDS Quốc gia cũng đang tiếp tục mở rộng xét nghiệm HIV tại cộng đồng, đặc biệt ở 15 tỉnh, thành phố có tình hình dịch cao. Triển khai thí điểm tự xét nghiệm HIV bằng nước bọt thông qua các tổ chức cộng đồng.
Đồng thời, mở rộng phòng xét nghiệm khẳng định HIV tuyến huyện cho các tỉnh, thành phố trọng điểm (TPHCM, Thanh Hóa, Sơn La, Điện Biên, Nghệ An, Yên Bái, Lào Cai). Điều này sẽ giảm thời gian chờ đợi trả kết quả xét nghiệm khẳng định cho bệnh nhân cũng như không phải vận chuyển mẫu máu đi xa.
Một trong những khó khăn của Chương trình Phòng chống AIDS của nước ta hiện nay là sự thiếu hụt về kinh phí. Trong những năm trước đây, phòng chống AIDS là một chương trình mục tiêu Quốc gia riêng biệt nên kinh phí được cung cấp khá đầy đủ và kịp thời. Nhưng hiện nay ngân sách Quốc gia phân bổ cho phòng chống AIDS thông qua Chương trình mục tiêu Y tế - Dân số cấp đợt 1 năm 2016 là 120 tỷ đồng được triển khai từ đầu năm 2017, trong đó 60 tỷ đồng mua thuốc Methadone, Buprenophine, ARV. 60 tỷ còn lại cấp cho các địa phương và Trung ương để triển khai các hoạt động phòng chống AIDS. Kinh phí đợt 2 năm 2016 và kinh phí năm 2017 chưa được cấp phát nên việc triển khai các hoạt động chuyên môn gặp rất nhiều khó khăn. Cho đến tháng 9/2017 mới có 54 tỉnh phê duyệt ngân sách địa phương thực hiện đề án đảm bảo tài chính cho hoạt động phòng chống AIDS.
Kinh phí hỗ trợ quốc tế cho phòng chống AIDS đang giảm rất nhanh. Kinh phí do Chương trình PEPFAR (Hoa Kỳ ) hỗ trợ giảm 40% so với 2016, và năm 2018 sẽ cắt kinh phí hỗ trợ trực tiếp gồm thuốc điều trị, sinh phẩm xét nghiệm, các hỗ trợ về nhân lực. Kinh phí Quỹ Toàn cầu sẽ kết thúc giai đoạn vào cuối năm 2017 và đang chờ đàm phán. Sự cắt giảm nguồn lực tài chính của các dự án hỗ trợ quốc tế và nguồn ngân sách quốc gia bao gồm cả nguồn ngân sách Trung ương và địa phương đã làm cho mức độ bao phủ các dịch vụ phòng chống AIDS vẫn còn hạn chế. Tất cả các lĩnh vực dự phòng, can thiệp giảm tác hại, giám sát và xét nghiệm, điều trị ARV và điều trị thay thế đều chưa đạt được các chỉ tiêu do chính phủ đề ra do đó rất khó khống chế được dịch bệnh HIV/AIDS.
Nguồn lực tài chính cho phòng chống HIV/AIDS trong suốt một thập kỷ qua chủ yếu dựa vào nguồn viện trợ quốc tế. Kể cả nguồn tài chính quốc tế và quốc gia trong 10 năm từ 2007 đến 2017 đã đầu tư bình quân khoảng trên 1 USD/người, trong đó gần 80% do viện trợ quốc tế, nay đang bị cắt giảm mạnh làm cho ngân sách đầu tư thực tế cho phòng chồng HIV/AIDS ở nước ta giảm nhanh chóng.
Việc chuyển giao dịch vụ HIV/AIDS từ nhà tài trợ sang cho quốc gia từ cơ sở dự phòng sang cơ sở điều trị ít nhiều thay đổi quy trình, thủ tục hành chính đã ảnh hưởng đến duy trì điều trị ARV của bệnh nhân HIV/AIDS. Nhiều nhân viên y tế trong hệ thống điều trị y tế được chuyển giao chưa được đào tạo chuyên sâu về chăm sóc, điều trị ARV, nên ảnh hưởng đến chất lượng điều trị ARV.
Việc chi trả lương hoặc phụ cấp cho những người tham gia cung cấp dịch vụ cho công tác phòng chống HIV/AIDS trong nhiều năm qua do kinh phí của các dự án quốc tế chi trả, nay bị cắt giảm do đó dẫn đến tình trạng thiếu hụt nghiêm trọng về nhân lực. Nhân lực thay thế chưa được đào taọ về chuyên môn nghiệp vụ và các kiến thức cần thiết liên quan đến phòng chống HIV/AIDS. Nhiều cán bộ ở các trung tâm phòng chống AIDS tuyến tỉnh thiếu an tâm công tác trước chủ trương sát nhập các trung tâm phòng chống AIDS vào các trung tâm kiểm soát dịch bệnh…
HIV/AIDS hiện nay vẫn là vấn đề sức khỏe công cộng quan trọng, là một trong những nguyên nhân hang đầu gây gánh nặng bệnh tật ở Việt Nam. Số lũy tích HIV dương tính tiếp tục tăng cao, đến nay có trên 200.000 người HIV cần được chăm sóc, điều trị thường xuyên, liên tục, suốt đời. Mỗi năm có trên 10.000 nhiễm HIV mới được phát hiện và có đến 2.000-3.000 người tử vong do AIDS, gây tác động rất lớn về sức khỏe, kinh tế- xã hội. Đặc biệt do những hạn chế về nguồn lực việc truyền thông thay đổi hành vi không được duy trì và thực hiện như những năm trước đây nên nhóm người có hành vi nguy cơ lây nhiễm HIV vẫn ở mức cao.
Với chủ đề “Xét nghiệm HIV sớm: Hướng tới mục tiêu 90-90-90 vào năm 2020”, năm nay Việt Nam là nước đầu tiên trên thế giới hưởng ứng mục tiêu 90-90-90. Thực hiện mục tiêu này là “đầy thách thức nhưng Việt Nam quyết tâm thực hiện bằng được, vì không chỉ phục vụ sức khỏe, tính mạng của con người mà còn vì sự ổn định, phát triển đất nước”. Mục tiêu 90-90-90 nhằm hướng tới năm 2020 có 90% số người nhiễm HIV biết được tình trạng nhiễm HIV của mình; 90% số người đã chẩn đoán nhiễm HIV được điều trị bằng thuốc kháng virus (ARV) và 90% số người được điều trị bằng ARV kiểm soát được tải lượng virus ở mức thấp (dưới ngưỡng ức chế để sống khỏe mạnh và làm giảm nguy cơ lây truyền HIV cho người khác).
Mục tiêu 90-90-90 là dấu mốc quan trọng có tính chiến lược cần đạt được trong phòng, chống HIV/AIDS nói chung, cũng như để có thể kết thúc dịch HIV/AIDS vào năm 2030.