Tối ưu hóa vai trò của phòng khám ngoại trú điều trị HIV/AIDS
(Chinhphu.vn) - Trong bối cảnh Việt Nam đang nỗ lực thực hiện cam kết loại trừ dịch HIV/AIDS vào năm 2030, việc nâng cao chất lượng điều trị HIV/AIDS tại các phòng khám ngoại trú (OPC) đóng vai trò đặc biệt quan trọng.
Đẩy mạnh tư vấn tuân thủ điều trị, xét nghiệm tải lượng HIV sớm
Thực tế cho thấy, mặc dù hệ thống điều trị HIV/AIDS đã được mở rộng trên cả nước, nhưng vẫn còn nhiều địa phương gặp khó khăn trong triển khai các dịch vụ điều trị đạt chuẩn.
Theo Quyết định 612/QĐ-BYT do Bộ Y tế ban hành ngày 14/3/2024, kế hoạch phòng, chống HIV/AIDS giai đoạn 2024–2030 không chỉ tập trung vào giảm số ca nhiễm mới, mà còn hướng tới mục tiêu nâng cao hiệu quả điều trị, mở rộng độ bao phủ bảo hiểm y tế (BHYT), tích hợp dịch vụ HIV vào hệ thống y tế cơ sở và tăng cường chất lượng dịch vụ tại các cơ sở y tế. Đặc biệt, các phòng khám ngoại trú điều trị HIV/AIDS được xác định là mắt xích quan trọng trong mạng lưới cung ứng dịch vụ bền vững.

Tư vấn điều trị xét nghiệm tại CDC Đồng Nai. Ảnh: CDC Đồng Nai
Thực hiện chủ trương trên, mới đây, Dự án USAID EpiC đã phối hợp với Trung tâm Kiểm soát bệnh tật tỉnh Đồng Nai (CDC Đồng Nai) tổ chức buổi hỗ trợ kỹ thuật tại Trung tâm Y tế khu vực Biên Hòa. Đây là một trong những nỗ lực nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tại các OPC của tỉnh.
Trong khuôn khổ chương trình, các chuyên gia đã tiến hành hướng dẫn chuyên môn về điều trị HIV/AIDS, bao gồm quản lý tải lượng virus, điều trị đồng nhiễm như lao/HIV, viêm gan C/HIV và lao tiềm ẩn. Bên cạnh đó, hoạt động hỗ trợ nhập liệu và sử dụng các phần mềm như dieutriarv.vn và HMED cũng được thực hiện đồng bộ.
Kết quả kiểm tra cho thấy, các phòng khám đã triển khai tương đối hiệu quả các nội dung kỹ thuật: Hồ sơ bệnh án được lưu giữ đầy đủ; chỉ định phác đồ phù hợp hướng dẫn; các quy trình chuyển hồ sơ, trả hồ sơ, xét nghiệm tải lượng HIV cũng như triển khai BHYT đều bảo đảm đúng quy định. Tuy nhiên, để nâng cao hiệu quả bền vững hơn nữa, đoàn hỗ trợ đã đề xuất tiếp tục đẩy mạnh tư vấn tuân thủ điều trị, xét nghiệm tải lượng HIV sớm sau khi có BHYT và lập danh sách bệnh nhân không có hoặc gián đoạn BHYT để hỗ trợ xét nghiệm bằng nguồn Quỹ Toàn cầu.
Để các hoạt động điều trị HIV/AIDS diễn ra thuận lợi, một hành lang pháp lý đồng bộ và các nguồn lực tài chính ổn định là điều kiện tiên quyết. Theo đó, Quyết định 612/QĐ-BYT đã nêu rõ yêu cầu cập nhật hướng dẫn chuyên môn, đào tạo nhân lực, truyền thông thay đổi hành vi và huy động sự tham gia của toàn xã hội.
Song song với các nỗ lực của trung ương, tại địa phương, Đồng Nai cũng đã có nhiều bước đi đáng chú ý. Vào tháng 5/2025, đoàn công tác của Cục Phòng, chống HIV/AIDS, phối hợp cùng UNAIDS và FHI-360 đã làm việc tại tỉnh nhằm khảo sát và hỗ trợ kỹ thuật trong công tác lập kế hoạch tài chính cho điều trị HIV/AIDS. Cuộc làm việc nhấn mạnh việc rà soát nhu cầu thuốc ARV, củng cố hệ thống cung ứng để bảo đảm không gián đoạn điều trị cho người bệnh.
Bác sĩ CKII Lưu Văn Dũng, Phó Giám đốc Sở Y tế Đồng Nai cho biết, Sở đang rà soát lượng thuốc còn tồn tại các cơ sở điều trị để bảo đảm không xảy ra gián đoạn cho bệnh nhân nhằm bảo đam việc duy trì ổn định điều trị HIV/AIDS cho người dân.
Thách thức trong thực tế vận hành OPC
Mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu, nhưng thực tế triển khai điều trị HIV/AIDS tại các OPC vẫn tồn tại không ít thách thức. Theo một nghiên cứu tại Tây Ninh công bố năm 2025, tỉ lệ tuân thủ điều trị ARV đạt khoảng 80,6%. Trong đó, yếu tố ảnh hưởng đáng kể đến việc không tuân thủ là nhóm bệnh nhân lớn tuổi, nữ giới, hoặc thiếu sự hỗ trợ từ nhân viên y tế.
Không dừng lại ở đó, hiệu quả điều trị còn phụ thuộc vào mức độ tuân thủ thuốc. Một nghiên cứu khác tại Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới TPHCM năm 2024 cho thấy, sau 6 tháng điều trị ARV, khoảng 71% bệnh nhân đạt tải lượng HIV dưới 50 copies/ml và chỉ số CD4 cải thiện rõ rệt. Các yếu tố như tuân thủ điều trị và chỉ số dinh dưỡng BMI được xác định là liên quan trực tiếp đến hiệu quả đàn áp virus.
Tuy nhiên, bên cạnh hiệu quả điều trị, người bệnh vẫn còn gặp trở ngại khi tiếp cận dịch vụ như khoảng cách địa lý, kỳ thị xã hội hoặc thiếu thông tin về quyền lợi khi tham gia BHYT. Những yếu tố này cho thấy cần có giải pháp toàn diện, không chỉ tập trung vào thuốc mà còn bao gồm cả hệ thống hỗ trợ xã hội và công nghệ.
Trên thực tế, nhiều chuyên gia y tế hàng đầu cũng đã đưa ra các nhận định sâu sắc về hiện trạng và giải pháp trong lĩnh vực điều trị HIV/AIDS tại Việt Nam.
PGS. TS. Phan Thị Thu Hương, nguyên Cục trưởng Cục Phòng, chống HIV/AIDS (Bộ Y tế) cho rằng, mặc dù hệ thống điều trị HIV/AIDS đã được mở rộng đáng kể, tuy nhiên việc tiếp cận dịch vụ điều trị tại một số địa phương còn hạn chế, đặc biệt là tại các khu vực vùng sâu vùng xa. Việc chẩn đoán, phát hiện tình trạng bệnh ở giai đoạn muộn sẽ gây khó khăn trong điều trị và phòng lây truyền.
Do đó, bà Hương cho rằng cần tăng cường truyền thông chủ động, mở rộng mô hình xét nghiệm thân thiện và nâng cao năng lực các cơ sở điều trị tuyến huyện, xã để bảo đảm bệnh nhân được tiếp cận dịch vụ sớm, thuận tiện và hiệu quả.
Bà Hương cũng cảnh báo rằng, nếu không có cơ chế tài chính phù hợp và sự phối hợp liên ngành mạnh mẽ, sẽ gặp khó khăn trong việc duy trì chất lượng điều trị. Bà đề xuất phải tích hợp mạnh hơn các dịch vụ HIV vào hệ thống y tế cơ sở và có chính sách hỗ trợ nhóm yếu thế như người nghèo, dân di cư…
Bác sĩ CKII Lưu Văn Dũng cũng đưa ra cảnh báo, nếu không xử lý kịp thời việc thiếu thuốc từ BHYT, nhiều bệnh nhân sẽ buộc phải ngưng điều trị hoặc chuyển đổi phác đồ, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe và nguy cơ lây nhiễm cộng đồng.
Cần nhân rộng mô hình cung cấp dịch vụ xét nghiệm, điều trị và tư vấn tại chỗ
Trên cơ sở những thách thức hiện nay, các chuyên gia cho rằng cần chú trọng một số nhóm giải pháp ưu tiên triển khai như sau:
Thứ nhất, tăng cường truyền thông và tư vấn cá nhân hóa tại các OPC để cải thiện tỉ lệ tuân thủ điều trị. Cần tận dụng các nền tảng số để nhắc nhở, theo dõi việc uống thuốc, đồng thời phát triển đội ngũ đồng đẳng viên tại cộng đồng.
Thứ hai, xây dựng và nhân rộng mô hình "một cửa" cung cấp dịch vụ xét nghiệm, điều trị và tư vấn tại chỗ – tương tự mô hình DOME đã được thí điểm tại TPHCM. Việc tích hợp các dịch vụ y tế sẽ giúp người bệnh tiếp cận điều trị thuận tiện hơn, đồng thời tiết kiệm chi phí và thời gian.
Thứ ba, chủ động lập kế hoạch cung ứng thuốc ARV, tránh phụ thuộc vào các đợt đấu thầu tập trung kéo dài. Cần thiết lập nguồn hậu cần dự phòng từ Quỹ Toàn cầu hoặc ngân sách địa phương để xử lý tình huống khẩn cấp.
Thứ tư, đẩy mạnh đào tạo, tập huấn định kỳ cho cán bộ y tế về cập nhật phác đồ điều trị, sử dụng phần mềm chuyên dụng như HMED, dieutriarv.vn nhằm nâng cao năng lực giám sát và quản lý điều trị.
Việc nâng cao chất lượng và thúc đẩy tiến độ triển khai các hoạt động tại các phòng khám ngoại trú điều trị HIV/AIDS là điều kiện tiên quyết để Việt Nam tiến gần mục tiêu chấm dứt dịch HIV vào năm 2030. Dù còn nhiều thách thức, nhưng những nỗ lực từ trung ương đến địa phương, từ hỗ trợ quốc tế đến chủ động tài chính nội bộ, đang tạo nền tảng vững chắc để hệ thống y tế ứng phó hiệu quả với dịch bệnh.
Quan trọng hơn cả, người bệnh cần được hỗ trợ đầy đủ cả về thuốc men lẫn tinh thần. Khi điều trị HIV không còn là gánh nặng mà trở thành một phần của chăm sóc sức khỏe toàn diện, xã hội sẽ từng bước tiến tới một tương lai không còn kỳ thị và không còn lây nhiễm HIV.
Bà Phan Thị Thu Hương nhấn mạnh, trong thời gian tới cần nâng cao năng lực tuyến y tế cơ sở, thúc đẩy xét nghiệm sớm, điều trị sớm và duy trì điều trị ổn định nếu muốn chặn đứng làn sóng lây nhiễm mới. Đây cũng chính là chìa khóa để hệ thống phòng, chống HIV/AIDS không chỉ tồn tại, mà còn phát triển bền vững trong bối cảnh các nguồn viện trợ quốc tế đang giảm dần.
Vì vậy, đầu tư cho hệ thống phòng khám ngoại trú HIV/AIDS không chỉ là đầu tư cho sức khỏe người bệnh, mà còn là đầu tư cho sự an toàn cộng đồng. Khi từng người bệnh được điều trị hiệu quả, xã hội sẽ từng bước giảm được gánh nặng lây nhiễm, giảm kỳ thị và tạo nên một môi trường sống an toàn, công bằng hơn cho tất cả.
Thùy Chi