Việt Nam cần giải quyết tình trạng phân biệt đối xử trong gia đình

19/02/2019 13:59

Để đưa tỷ số giới tính khi sinh (TSGTKS) của Việt Nam trở lại mức bình thường, Việt Nam cần phải nhanh chóng mở rộng trọng tâm hiện nay trong lĩnh vực giáo dục và việc làm, và tập trung nhiều hơn nữa vào việc giải quyết tình trạng phân biệt đối xử dựa trên cơ sở giới trong phạm vi gia đình.

Ảnh minh họa. Nguồn internet

Theo Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc (UNFPA), trong nhiều thập kỷ qua, Chính phủ Việt Nam đã luôn chú trọng tới bình đẳng giới trong các chương trình nghị sự, trong đó tập trung đặc biệt vào giáo dục và việc làm cho phụ nữ.

Dựa trên các nghiên cứu ở Việt Nam và các bài học kinh nghiệm từ các quốc gia khác, UNFPA đề xuất những khuyến nghị sau để giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh.

Đầu tiên, cần giải quyết bất bình đẳng giới, đặc biệt là tình trạng phân biệt đối xử trên cơ sở giới trong phạm vi gia đình, UNFPA khuyến nghị Việt Nam cần phải thay đổi các thông lệ cư trú của các cặp vợ chồng sau khi kết hôn và việc thực hiện quyền thừa kế. Có thể tiến hành các hoạt động tuyên truyền trong các cộng đồng và các hộ gia đình để thúc đẩy cộng đồng chấp nhận cả hai hình thức cư trú sau hôn nhân: “ở dâu” (con dâu ở nhà chồng) cũng như “ở rể” (con rể ở nhà vợ) và đảm bảo sự bình đẳng trong thực hiện quyền thừa kế giữa con gái và con trai. Các nghiên cứu hiện nay cho thấy hệ thống gia đình lưỡng hệ có thể giúp phụ nữ nâng cao năng lực và tăng giá trị của con gái trong mắt cha mẹ và những người khác.

Để thúc đẩy các thực hành mới trong gia đình, sự cam kết và hợp tác từ phía nam giới là then chốt. Vì vậy, cần phải tiếp tục huy động, khuyến khích nam giới tham gia vào việc chấm dứt phân biệt đối xử với phụ nữ và trẻ em gái, ví dụ thông qua các hình thức truyền thông thay đổi hành vi nhằm khuyến khích nam giới chia sẻ công việc gia đình với các thành viên nữ trong gia đình; khuyến khích người chồng hỗ trợ vợ và con gái hoàn thành các mục tiêu học tập và phát triển nghề nghiệp; và cảnh báo về tầm quan trọng đối với gia đình, cộng đồng và quốc gia của việc chia thừa kế công bằng giữa con trai và con gái trong gia đình.

Điều quan trọng là phải nâng cao nhận thức của người dân về quyền thừa kế của phụ nữ và khuyến khích phụ nữ đòi hỏi thực hiện quyền thừa kế của mình đối với tài sản gia đình. Cần cung cấp dịch vụ hỗ trợ pháp lý đầy đủ và miễn phí để giúp phụ nữ yêu cầu phân chia công bằng tài sản thừa kế từ bố mẹ như đất đai hoặc các tài sản khác.

Các ý thức hệ gia đình thường chỉ đánh giá cao đóng góp của nam giới đối với gia đình và xã hội trong khi các đóng góp của phụ nữ và trẻ em gái vào kinh tế chính thức cũng như không chính thức của gia đình thường không được ghi nhận và thường được coi là đương nhiên. Vì vậy, cần nâng cao nhận thức của công chúng về sự đóng góp của phụ nữ và trẻ em gái đối với gia đình, cộng đồng và xã hội.

Thứ hai, cần tăng cường bảo trợ xã hội cho người cao tuổi. Việc đảm bảo hệ thống bảo trợ xã hội tốt hơn cho người cao tuổi cũng được xem là một giải pháp quan trọng để giảm bớt tâm lý ưa chuộng con trai. Tuy nhiên, ở Việt Nam, việc lựa chọn giới tính để có con trai thường phổ biến hơn trong các nhóm giàu có hơn - đó là những người có khả năng tích lũy tài sản để có thể duy trì cuộc sống của họ khi về già. Điều này cho thấy mối quan tâm về an ninh tài chính tuổi già có thể không phải là động lực chính dẫn tới việc lựa chọn giới tính ở Việt Nam. Tănng cường bảo trợ xã hội cho người cao tuổi có thể góp phần làm giảm sự phụ thuộc của người cao tuổi vào sự chăm sóc của con cái lúc về già, đồng thời cũng góp phần thay đổi quan niệm về việc nhất thiết phải có con trai.

Thứ ba, giải quyết tình trạng lạm dụng công nghệ y tế. Thực hành lựa chọn giới tính phụ thuộc vào việc xác định giới tính trước khi sinh bằng siêu âm. Việt Nam có thể triển khai nhiều biện pháp hơn để ngăn ngừa việc xác định giới tính trước khi sinh nhưng cần phải đảm bảo phụ nữ được tiếp cận các dịch vụ phá thai an toàn. Việc thanh kiểm tra các cơ sở y tế công và tư nhân chặt chẽ hơn kèm theo các khoản tiền phạt đáng kể hoặc các hình thức xử phạt khác đối với các vi phạm quy định về xác định giới tính trước khi sinh sẽ làm cho việc tiếp cận thông tin về giới tính thai nhi trở nên khó khăn hơn và do đó thực hành lựa chọn giới tính trước sinh cũng khó khăn hơn.

Việc thi hành nghiêm pháp luật và các quy định hiện hành cũng sẽ chứng minh cho người dân thấy sự nghiêm túc của Chính phủ trong việc thực thi pháp luật hiện hành về lĩnh vực này.

Cuối cùng là nghiên cứu và giám sát. Nghiên cứu so sánh về thực hành trong gia đình tại các vùng miền khác nhau của Việt Nam. Theo UNFPA, TSGTKS rất khác nhau giữa các vùng miền với điều kiện kinh tế xã hội khác nhau. Trong cùng một quốc gia nhưng có nhiều nơi TSGTKS vẫn gần với mức sinh học bình thường. Điều này cho thấy cần tiến hành nhiều nghiên cứu chuyên sâu hơn để tìm hiểu về các yếu tố nào sẽ khiến các ông bố bà mẹ tương lai ở những vùng miền này không thực hành lựa chọn giới tính. Những nghiên cứu này cần đặc biệt chú trọng vào các vấn đề như thừa kế và cư trú sau hôn nhân.

Ví dụ, những nghiên cứu so sánh các thực hành trong gia đình ở Đồng bằng sông Cửu Long và Đồng bằng sông Hồng - cả hai đều là những vùng nông nghiệp phát triển và người dân dễ dàng tiếp cận với các thành phố lớn. Những nghiên cứu như vậy có thể cung cấp những hiểu biết sâu sắc và ý tưởng làm thế nào để giảm phân biệt đối xử về giới trong gia đình...

}
Top