Bảo đảm các nguyên tắc trong khám bệnh, chữa bệnh cho bệnh nhân HIV/AIDS

19/01/2024 14:07

(Chinhphu.vn) - Xin cho hỏi, bác sĩ có được từ chối khám chữa bệnh đối với bệnh nhân nhiễm HIV hay không? Và những đối tượng nào được ưu tiên cấp phát thuốc kháng HIV để điều trị miễn phí? (Chị N.T.M, Thanh Hóa).

Trả lời:

Bệnh nhân HIV cần phải được tôn trọng, bảo vệ, đối xử bình đẳng và không kỳ thị, phân biệt đối xử. Những bệnh nhân HIV/AIDS sẽ được cấp phát thuốc kháng HIV theo thứ tự ưu tiên.

Bảo đảm các nguyên tắc trong khám bệnh, chữa bệnh cho bệnh nhân HIV/AIDS- Ảnh 1.

Bệnh nhân HIV cần phải được tôn trọng, bảo vệ, đối xử bình đẳng và không kỳ thị, phân biệt đối xử. Những bệnh nhân HIV/AIDS sẽ được cấp phát thuốc kháng HIV theo thứ tự ưu tiên.Ảnh minh họa

Căn cứ theo Điều 3 Luật Khám bệnh, chữa bệnh 2023 về nguyên tắc trong khám bệnh, chữa bệnh như sau:

Nguyên tắc trong khám bệnh, chữa bệnh

1. Tôn trọng, bảo vệ, đối xử bình đẳng và không kỳ thị, phân biệt đối xử đối với người bệnh.

2. Ưu tiên khám bệnh, chữa bệnh đối với trường hợp người bệnh trong tình trạng cấp cứu, trẻ em dưới 06 tuổi, phụ nữ có thai, người khuyết tật đặc biệt nặng, người khuyết tật nặng, người từ đủ 75 tuổi trở lên, người có công với cách mạng phù hợp với đặc thù của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh.

3. Tôn trọng, hợp tác, bảo vệ người hành nghề, người khác đang thực hiện nhiệm vụ tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh.

4. Thực hiện kịp thời và tuân thủ quy định về chuyên môn kỹ thuật.

5. Tuân thủ quy tắc đạo đức nghề nghiệp trong hành nghề khám bệnh, chữa bệnh do Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành.

6. Bình đẳng, công bằng giữa các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh.

Theo quy định trên, một trong những nguyên tắc khám bệnh, chữa bệnh là tôn trọng, bảo vệ, đối xử bình đẳng và không kỳ thị, phân biệt đối xử đối với người bệnh.

Đồng thời theo khoản 2 Điều 7 Luật Khám bệnh, chữa bệnh 2023 nghiêm cấm việc chối hoặc cố ý chậm cấp cứu người bệnh, trừ trường hợp quy định tại Điều 40 Luật Khám bệnh, chữa bệnh 2023.

Dẫn chiếu Điều 40 Luật Khám bệnh, chữa bệnh 2023 thì người hành nghề được từ chối khám bệnh, chữa bệnh trong các trường hợp sau:

Quyền từ chối khám bệnh, chữa bệnh

Người hành nghề được từ chối khám bệnh, chữa bệnh trong các trường hợp sau đây:

1. Tiên lượng tình trạng bệnh vượt quá khả năng hoặc không thuộc phạm vi hành nghề của mình nhưng phải giới thiệu người bệnh đến người hành nghề khác hoặc cơ sở khám bệnh, chữa bệnh khác phù hợp để khám bệnh, chữa bệnh và phải thực hiện việc sơ cứu, cấp cứu, theo dõi, chăm sóc, điều trị người bệnh cho đến khi người bệnh được người hành nghề khác tiếp nhận hoặc chuyển đi cơ sở khám bệnh, chữa bệnh khác;

2. Việc khám bệnh, chữa bệnh trái với quy định của pháp luật hoặc đạo đức nghề nghiệp;

3. Người bệnh, thân nhân của người bệnh có hành vi xâm phạm thân thể, sức khỏe, tính mạng của người hành nghề khi đang thực hiện nhiệm vụ, trừ trường hợp người đó mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác mà không nhận thức, làm chủ được hành vi;

4. Người bệnh yêu cầu phương pháp khám bệnh, chữa bệnh không phù hợp với quy định về chuyên môn kỹ thuật;

5. Người bệnh, người đại diện của người bệnh quy định tại điểm a khoản 2 và điểm a khoản 3 Điều 15 của Luật này không chấp hành chỉ định về chẩn đoán, phương pháp chữa bệnh của người hành nghề sau khi đã được người hành nghề tư vấn, vận động thuyết phục mà việc không chấp hành này có nguy cơ gây hại đến sức khỏe, tính mạng của người bệnh.

Do đó, việc bệnh nhân là người nhiễm HIV không thuộc trường hợp được từ chối khám bệnh, chữa bệnh nêu trên. Nên người hành nghề khám bệnh, chữa bệnh không được từ chối khám bệnh, chữa bệnh khi phát hiện bệnh nhân là người nhiễm HIV.

Giấy phép hành nghề khám chữa bệnh đối với bác sĩ

Căn cứ theo Điều 3 Nghị định 96/2023/NĐ-CP hướng dẫn Luật Khám bệnh, chữa bệnh, có quy định như sau:

Thời gian, nội dung thực hành để cấp giấy phép hành nghề khám bệnh, chữa bệnh

1. Thời gian thực hành khám bệnh, chữa bệnh đối với chức danh bác sỹ là 12 tháng, trong đó:

a) Thời gian thực hành chuyên môn khám bệnh, chữa bệnh là 09 tháng;

b) Thời gian thực hành chuyên môn khám bệnh, chữa bệnh về hồi sức cấp cứu là 03 tháng.

2. Thời gian thực hành khám bệnh, chữa bệnh đối với chức danh y sỹ là 09 tháng, trong đó:

a) Thời gian thực hành chuyên môn khám bệnh, chữa bệnh là 06 tháng;

b) Thời gian thực hành chuyên môn khám bệnh, chữa bệnh về hồi sức cấp cứu là 03 tháng.

3. Thời gian thực hành khám bệnh, chữa bệnh đối với chức danh điều dưỡng, hộ sinh, kỹ thuật y là 06 tháng, trong đó:

a) Thời gian thực hành chuyên môn khám bệnh, chữa bệnh là 05 tháng;

b) Thời gian thực hành chuyên môn khám bệnh, chữa bệnh về hồi sức cấp cứu là 01 tháng.

4. Thời gian thực hành khám bệnh, chữa bệnh đối với chức danh dinh dưỡng lâm sàng là 06 tháng.

5. Thời gian thực hành khám bệnh, chữa bệnh đối với chức danh cấp cứu viên ngoại viện là 06 tháng, trong đó:

a) Thời gian thực hành chuyên môn khám bệnh, chữa bệnh về cấp cứu ngoại viện là 03 tháng;

b) Thời gian thực hành chuyên môn khám bệnh, chữa bệnh về hồi sức cấp cứu là 03 tháng.

6. Thời gian thực hành khám bệnh, chữa bệnh đối với chức danh tâm lý lâm sàng là 09 tháng.

7. Trong quá trình thực hành phải lồng ghép nội dung hướng dẫn về các quy định pháp luật về khám bệnh, chữa bệnh, quy chế chuyên môn, đạo đức hành nghề, an toàn người bệnh, kỹ năng giao tiếp và ứng xử của người hành nghề khám bệnh, chữa bệnh.

8. Căn cứ phạm vi hành nghề do Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành và quy định tại khoản 1 đến khoản 7 Điều này, cơ sở hướng dẫn thực hành xây dựng nội dung thực hành cụ thể đối với từng chức danh chuyên môn mà cơ sở dự kiến tổ chức hướng dẫn thực hành.

Theo đó, bác sĩ trước khi được cấp chứng chỉ hành nghề cần phải qua thời gian thực hành khám chữa bệnh 12 tháng.

Nguyên tắc đăng ký hành nghề của bác sĩ

Căn cứ tại Điều 36 Luật Khám bệnh, chữa bệnh 2023 quy định:

Nguyên tắc đăng ký hành nghề

1. Người hành nghề được đăng ký hành nghề tại nhiều cơ sở khám bệnh, chữa bệnh nhưng không được trùng thời gian khám bệnh, chữa bệnh giữa các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh.

2. Người hành nghề được đăng ký làm việc tại một hoặc nhiều vị trí chuyên môn sau đây trong cùng một cơ sở khám bệnh, chữa bệnh nhưng phải bảo đảm chất lượng công việc tại các vị trí được phân công:

a) Khám bệnh, chữa bệnh theo giấy phép hành nghề;

b) Phụ trách một bộ phận chuyên môn;

c) Chịu trách nhiệm chuyên môn của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh.

3. Người hành nghề được khám bệnh, chữa bệnh mà không phải đăng ký hành nghề trong các trường hợp sau đây:

a) Hoạt động cấp cứu ngoài cơ sở khám bệnh, chữa bệnh, trừ cấp cứu viên ngoại viện;

b) Được cơ quan, người có thẩm quyền huy động, điều động tham gia hoạt động khám bệnh, chữa bệnh trong trường hợp xảy ra thiên tai, thảm họa, dịch bệnh truyền nhiễm thuộc nhóm A hoặc tình trạng khẩn cấp;

c) Khám bệnh, chữa bệnh nhân đạo theo đợt;

d) Khám bệnh, chữa bệnh trong quá trình chuyển giao kỹ thuật chuyên môn, hỗ trợ chuyên môn kỹ thuật ở cơ sở khám bệnh, chữa bệnh khác trong thời gian ngắn hạn;

đ) Trường hợp khác theo quy định của Bộ trưởng Bộ Y tế.

Như vậy, nguyên tắc đăng ký hành nghề của bác sĩ là:

- Được đăng ký hành nghề tại nhiều cơ sở khám bệnh, chữa bệnh nhưng không được trùng thời gian khám bệnh, chữa bệnh giữa các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh.

- Được đăng ký làm việc tại một hoặc nhiều vị trí chuyên môn sau đây trong cùng một cơ sở khám bệnh, chữa bệnh nhưng phải bảo đảm chất lượng công việc tại các vị trí được phân công như sau:

+ Khám bệnh, chữa bệnh theo giấy phép hành nghề.

+ Phụ trách một bộ phận chuyên môn.

+ Chịu trách nhiệm chuyên môn của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh.

- Được khám bệnh, chữa bệnh mà không phải đăng ký hành nghề trong các trường hợp sau đây:

+ Hoạt động cấp cứu ngoài cơ sở khám bệnh, chữa bệnh, trừ cấp cứu viên ngoại viện;

+ Được cơ quan, người có thẩm quyền huy động, điều động tham gia hoạt động khám bệnh, chữa bệnh trong trường hợp xảy ra thiên tai, thảm họa, dịch bệnh truyền nhiễm thuộc nhóm A hoặc tình trạng khẩn cấp.

+ Khám bệnh, chữa bệnh nhân đạo theo đợt.

+ Khám bệnh, chữa bệnh trong quá trình chuyển giao kỹ thuật chuyên môn, hỗ trợ chuyên môn kỹ thuật ở cơ sở khám bệnh, chữa bệnh khác trong thời gian ngắn hạn.

+ Trường hợp khác theo quy định của Bộ trưởng Bộ Y tế.

Thứ tự ưu tiên được cấp phát thuốc kháng HIV để điều trị miễn phí

Theo quy định của Thông tư 28/2018/TT-BYT, việc cấp thuốc kháng HIV để điều trị miễn phí cho người nhiễm HIV được xác định dựa trên một số tiêu chí ưu tiên. Điều này nhằm bảo đảm rằng những người nhiễm HIV có được sự chăm sóc và điều trị đúng mức độ và thời gian.

Để hiểu rõ hơn về tiêu chí ưu tiên này, chúng ta cần xem xét khoản 3 Điều 4 của Thông tư. Theo đó, thuốc kháng HIV sẽ được cấp miễn phí cho những trường hợp sau đây:

- Các trường hợp được quy định tại điểm a, b, c Khoản 3 Điều 39 của Luật phòng, chống HIV/AIDS. Điều này ám chỉ đến những trường hợp đặc biệt, như phụ nữ mang bầu và người nhiễm HIV trong giai đoạn cuối bệnh, những trường hợp cần quan tâm và chăm sóc đặc biệt để đảm bảo sức khỏe của họ và ngăn chặn sự lan truyền của HIV/AIDS trong cộng đồng.

- Người nhiễm HIV đang trong tình trạng bị giam giữ tại trại giam, trại tạm giam, cơ sở giáo dục bắt buộc, trường giáo dưỡng. Điều này nhằm đảm bảo rằng người nhiễm HIV không bị bỏ rơi trong quá trình thụ án hoặc trong thời gian học tập và phát triển.

Bên cạnh đó, theo quy định của Luật Phòng, chống nhiễm virus gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS) năm 2006, việc cấp thuốc kháng HIV miễn phí được xác định dựa trên một số tiêu chí ưu tiên. Điều này nhằm đảm bảo rằng những người nhiễm HIV có được sự chăm sóc và điều trị đúng mức độ và thời gian.

Để hiểu rõ hơn về tiêu chí ưu tiên này, chúng ta cần xem xét khoản 3 Điều 39 của Luật. Theo đó, thuốc kháng HIV sẽ được cấp miễn phí cho những đối tượng sau đây theo thứ tự ưu tiên:

- Trẻ em từ đủ 6 tuổi đến dưới 16 tuổi nhiễm HIV. Điều này nhằm đảm bảo rằng những trẻ em bị nhiễm HIV có được điều trị và chăm sóc đặc biệt. Việc đảm bảo sức khỏe và phát triển của trẻ em là một nhiệm vụ quan trọng, và việc cung cấp thuốc miễn phí cho đối tượng này giúp đảm bảo sự công bằng trong việc tiếp cận dịch vụ y tế.

- Người nhiễm HIV tích cực tham gia phòng, chống HIV/AIDS. Đây là những người đã và đang tích cực tham gia vào hoạt động phòng, chống HIV/AIDS, như là tình nguyện viên, nhân viên y tế hoặc những người thực hiện các biện pháp phòng ngừa lây nhiễm HIV. Việc ưu tiên cấp thuốc cho đối tượng này giúp khuyến khích sự tham gia tích cực và đáng khen ngợi trong công tác phòng, chống HIV/AIDS.

- Người nhiễm HIV có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Điều này ám chỉ đến những người nhiễm HIV có hoàn cảnh kinh tế, xã hội khó khăn, như người nghèo, người khuyết tật, người già neo đơn hoặc những trường hợp đặc biệt khác. Việc ưu tiên cung cấp thuốc miễn phí cho những đối tượng này giúp bảo đảm rằng họ không gặp khó khăn trong việc tiếp cận và sử dụng dịch vụ y tế.

- Những người khác nhiễm HIV. Đây là những người nhiễm HIV không thuộc vào các đối tượng ưu tiên được nêu trên. Việc cung cấp thuốc miễn phí cho đối tượng này vẫn là trách nhiệm của hệ thống chăm sóc sức khỏe để đảm bảo rằng mọi người nhiễm HIV đều có quyền tiếp cận vào điều trị và chăm sóc.

Việc ưu tiên cấp thuốc kháng HIV miễn phí cho những nhóm đối tượng trên là cần thiết để bảo đảm sự công bằng và bình đẳng trong việc tiếp cận và sử dụng dịch vụ y tế cho những người nhiễm HIV. Qua việc áp dụng các tiêu chí ưu tiên này, chính phủ hy vọng có thể đảm bảo rằng các nguồn lực và thuốc kháng HIV sẽ được sử dụng một cách hiệu quả và có ích nhất cho những người có nhu cầu cấp thiết.

Ngoài việc cung cấp thuốc kháng HIV miễn phí, cũng cần có sự đồng hành và hỗ trợ từ các tổ chức và cá nhân trong nước và nước ngoài. Các tổ chức và cá nhân này có thể tài trợ các loại thuốc kháng HIV hoặc đóng góp nguồn lực tài chính để hỗ trợ việc cung cấp thuốc miễn phí cho người nhiễm HIV. Điều này là một sự đóng góp quan trọng và đáng khen ngợi trong việc chung tay phòng chống HIV/AIDS và mang lại những lợi ích to lớn cho cộng đồng.

Thúy Vân

Top