Bạo lực tình dục: Vấn đề toàn cầu và trong khu vực
Bạo lực tình dục với phụ nữ và trẻ em gái, trong đó có hiếp dâm và tấn công tình dục được coi là một hình thức bạo lực với phụ nữ. Các hình thức bạo lực này có thể xảy ra ở trong gia đình hoặc nơi công cộng, do các thành viên gia đình, bạn bè, hàng xóm hoặc người lạ gây ra đối với nhằm vào phụ nữ và trẻ em gái ở mọi lứa tuổi, ở mọi năng lực, văn hóa, dân tộc, tôn giáo và xu hướng tính dục.
![]() |
Ảnh minh họa. Nguồn internet |
"Báo cáo Xét xử tội hiếp dâm: Hiểu cách ứng phó của hệ thống tư pháp hình sự đối với bạo lực tình dục ở Thái Lan và Việt Nam" mới được Liên Hợp Quốc công bố đã đưa ra những số liệu và bằng chứng về tình hình bạo lực tình dục trên toàn cầu và khu vực Châu Á, Đông Nam Á.
Theo báo cáo rà soát toàn cầu năm 2013 của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) dựa trên số liệu sẵn có, 35% phụ nữ trên toàn thế giới từng bị bạo lực thể chất và/hoặc bạo lực do chồng/bạn tình hoặc bạo lực tình dục do người không phải là chồng/bạn tình gây ra. Ước tính có 150 triệu trẻ em gái dưới 18 tuổi từng bị bạo lực tình dục. Mối quan hệ quyền lực trên cơ sở giới trong xã hội đặt rất nhiều trẻ em gái trước những nguy cơ lớn hơn so với trẻ em trai đối với một số hình thức bạo lực, nhất là bạo lực tình dục. Một nghiên cứu đa quốc gia cho thấy, trên toàn thế giới, tỷ lệ trẻ em gái vị thành niên dưới 15 tuổi bị ép buộc quan hệ tình dục lần đầu dao động từ 11% đến 48%.
Một nghiên cứu của Liên Hợp Quốc về bạo lực do nam giới gây ra ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương cho thấy 26-80% nam giới biết họ từng gây ra bạo lực thể chất và/hoặc bạo lực tình dục với vợ/bạn tình, và 10-40% nam giới cho biết từng cưỡng hiếp người không phải là vợ/bạn tình, mà động cơ phổ biến nhất là họ cho rằng mình có quyền về tình dục.
Những quy phạm về xã hội và văn hóa và vấn đề bạo lực tình dục ở Châu Á
Cũng giống như ở các khu vực khác, các xã hội ở châu Á vẫn chủ yếu là xã hội phụ hệ, điều đó được phản ánh trong những quy phạm xã hội nghiêm ngặt liên quan đến vai trò của nam giới và phụ nữ và đạo đức mong đợi vẫn tiếp tục được thực hành ở cả khu vực thành thị và nông thôn.
Theo một báo cáo rà soát có hệ thống trên phạm vi toàn cầu của WHO về số liệu liên quan đến bạo lực tình dục do chồng/bạn tình và không do chồng/bạn tình gây ra, khu vực Đông Nam Á xếp vị trí cao nhất sau châu Phi với 40,2%, về tỷ lệ bạo lực do chồng/bạn tình (thể chất và/hoặc tình dục) hoặc bạo lực tình dục do người không phải là chồng/bạn tình gây ra trong đời, hoặc cả hai, đối với phụ nữ từ 15 tuổi trở lên.
Tại Thái Lan, có quan niệm phổ biến ở cả nam giới và phụ nữ là người vợ là tài sản của người chồng và vợ phải phục tùng chồng, được mô tả ví von như người vợ là đôi chân sau của con voi, đi theo người đàn ông là đôi chân trước. Hiếp dâm đôi khi được coi là hợp pháp, cả ở trong cộng đồng và trên các phương tiện truyền thông, dựa trên lịch sử quan hệ tình dục của người phụ nữ. Có hai từ dùng để nói về hiếp dâm ở Thái Lan, đó là kom-keun, với cách hiểu chung trên thế giới về hành vi giao cấu không có sự đồng thuận, và plam, một khẩu ngữ nói về quan hệ tình dục bằng bạo lực và không có sự chống cự rõ ràng, và dễ được xã hội chấp nhận hơn, và thường xuất hiện trong các bộ phim truyền hình của Thái Lan trong đó ‘gái hư’ bị trừng phạt bằng cách bị hiếp dâm và sau đó ‘quy phục’ và ‘yêu’ kẻ đã cưỡng hiếp mình.
Ở Việt Nam, nam giới được coi là bên chủ động trong quan hệ tình dục và phụ nữ được trông đợi là phải làm thỏa mãn chồng mình bằng cách đáp ứng nhu cầu tình dục của họ. Ở cả Thái Lan và Việt Nam, tầm quan trọng của gia đình được nhấn mạnh trong văn hóa, luật pháp và chính sách, và luật pháp được thực thi trong bối cảnh thúc đẩy quan niệm về ‘hòa thuận’ (Thái Lan) và ‘gia đình hạnh phúc’ (Việt Nam), và điều này có thể không khuyến khích việc trình báo về bạo lực trong gia đình.
Các chiến dịch truyền thông của Chính phủ nhằm thúc đẩy gia đình ‘hạnh phúc’ và ‘hòa thuận’ thường làm trầm trọng thêm những khuôn mẫu về phụ nữ với vai trò làm mẹ, làm vợ và làm dâu; còn nam giới lại là người được hưởng đặc quyền.
Nghiên cứu năm 2003 của WHO về bạo lực tình dục và sức khỏe của phụ nữcho biết 30% phụ nữ từng có chồng/bạn tình ở Bangkok và 29% ở Nakhonsawan đã từng bị bạo lực do chồng/bạn tình gây ra. Nghiên cứu trên cũng cho thấy 37% phụ nữ từng bị bạo lực thể chất hoặc bạo lực tình dục ở Bangkok, và 46% ở Nakhonsawan, không nói cho ai việc họ bị bạo lực, và nếu có nói thì cũng thường là chỉ với cha mẹ họ hoặc gia đình chồng/bạn tình của họ. Chỉ 20% số phụ nữ bị bạo lực thể chất ở Bangkok và 10% ở Nakhonsawan từng tìm đến các dịch vụ của nhà nước (y tế, cảnh sát và lãnh đạo địa phương/tôn giáo) để được giúp đỡ. Theo UNODC, tỷ lệ trình báo đã tăng từ 7,7 trên 100.000 vụ ở Thái Lan năm 2005 lên 8,0 vào năm 2006. Theo Bộ Y tế Thái Lan, có 31.866 vụ hiếp dâm được trình báo năm 2013.
Tương tự, Viện Nghiên cứu Phát triển Thái Lan ước tính mỗi năm có 30.000 vụ hiếp dâm ở nước này-con số được lấy từ một khảo sát các tội hình sự ở Thái Lan năm 2012.
Trung bình từ năm 2008 đến năm 2013, số lượng vụ việc được trình báo với cảnh sát đạt xấp xỉ 4.000 vụ mỗi năm. Theo số liệu này, 87% số vụ hiếp dâm không được trình báo với cảnh sát ở Thái Lan.
Những năm gầy đây, tại Việt Nam đã có nhiều nghiên cứu về bạo lực gia đình. Bạo lực tình dục trong gia đình, nhất là hiếp dâm trong hôn nhân, thường không được trình báo với công an, tuy nhiên, trong nghiên cứu quốc gia về bạo lực gia đình đối với phụ nữ ở Việt Nam vào năm 2010, 10% số phụ nữ từng kết hôn trả lời phỏng vấn cho biết họ từng bị chồng bạo hành tình dục trong đời, và 4% trong vòng 12 tháng trước. Những phụ nữ trình báo về bạo lực tình dục hầu như luôn trình báo về bạo lực thể xác. Khảo sát do Vụ Các vấn đề Xã hội Quốc hội Việt Nam tiến hành năm 2006 cho thấy 30% số phụ nữ được khảo sát cho biết họ bị chồng ép buộc quan hệ tình dục không mong muốn.