Chính sách hình sự đối với tội phạm ma túy qua các thời kỳ
Ma túy hủy hoại cuộc sống và cộng đồng, làm xói mòn sự tồn tại và phát triển của loài người và là nguồn phát sinh tội phạm. Các tội phạm về ma túy được Nhà nước ta quy định từ rất sớm, nhưng trong từng giai đoạn, căn cứ vào tình hình kinh tế - xã hội cụ thể mà Nhà nước ban hành những văn bản thích hợp, phù hợp với yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm.
![]() |
Ảnh minh họa |
Đạo luật đầu tiên về Cấm trồng cây thuốc phiện
Các loại cây có chất ma túy được du nhập vào Việt Nam đầu tiên là cây thuốc phiện. Cây này được trồng nhiều ở các tỉnh phía Bắc Việt Nam vào những năm 1600. Ban đầu cây thuốc phiện được coi là một thứ hoả dược có thể chữa được một số loại bệnh như bệnh phong thấp, đường ruột, giảm đau. Nhưng sau đó, người ta cũng thấy tác hại to lớn của nó. Ở các thôn bản, nơi trồng nhiều cây thuốc phiện cũng là những nơi có nhiều người nghiện, hút thuốc phiện và từ đó đã hình thành những tư tưởng tiến bộ, lên án, đấu tranh với tệ nạn này.
Thời kỳ đầu xuất hiện những hương ước, quy chế ở các thôn bản về cấm sử dụng thuốc phiện, tuy nhiên hiệu lực của nó còn rất hạn chế, tình trạng trồng cây thuốc phiện và nghiện hút vẫn có chiều hướng lan tràn rất nhanh. Do đó, vào năm Cảnh trị thứ III (1665), Nhà nước phong kiến Việt Nam đã ban hành Đạo luật đầu tiên về Cấm trồng cây thuốc phiện. Đạo luật này nêu rõ: “Con trai, con gái dùng thuốc phiện để thỏa lòng dâm dật, trộm cướp dùng nó để nhòm ngó nhà người ta. Trong kinh thành, ngoài thì thôn xóm, vì nó mà có khi hoả hoạn, khánh kiệt tài sản. Vì nó mà thân tàn tạ, người chẳng ra người”. Đạo luật này còn quy định: “Từ nay về sau quan lại và dân chúng không được trồng hoặc mua bán thuốc phiện. Ai đã trồng thì phải phá đi, người nào chứa giữ thì phải hủy đi”.
Cũng như cây thuốc phiện, cây cần sa, cây coca đã có từ xa xưa trên thế giới, nhưng hai loại cây này du nhập vào trồng ở Việt Nam muộn hơn cây thuốc phiện. Cây cần sa được trồng ở các tỉnh miền Tây Nam bộ, cây coca được trồng ở các tỉnh phía Nam. Vào đầu thế kỷ XIX, mặc dù bị cấm gắt gao nhưng do ảnh hưởng của cuộc chiến tranh nha phiến giữa Trung Quốc và Anh nên tình trạng nghiện hút vẫn tăng nhanh. Chẳng những dân chúng mà đến cả bọn quan lại, người quyền quý cũng đua nhau hút thuốc phiện. Trước tình trạng ấy, chính quyền nhà Nguyễn đã ban hành các chính sách chống ma tuý, gồm các nội dung cơ bản sau:
- Thứ nhất là, lấp nguồn, cạn dòng
Nguồn là nơi sản xuất thuốc phiện, “lấp nguồn” là xóa bỏ nơi trồng cây thuốc phiện. Luật quy định phải phá bỏ các khu vực trồng cây thuốc phiện. Kẻ nào mua bán thuốc phiện thì phải bị xử phạt 60 trượng, xử tù một năm, tịch thu toàn bộ vật chứng dùng trong buôn bán. Lái buôn nước ngoài buôn bán thuốc phiện bị đánh 100 trượng và tịch thu vật chứng.
Cạn dòng là giảm số người hút thuốc phiện. Luật quy định: chủ hàng, chủ chứa bàn đèn hút thuốc phiện bị phạt 100 trượng và tù ba năm. Người hút thuốc phiện bị phạt 100 trượng và tù ba năm. Cha, anh không ngăn giữ con em, bị phạt 100 trượng. Quan lại hút thuốc phiện bị đánh 100 trượng và bị cách chức. Các cơ quan hữu quan có trách nhiệm nghiên cứu các phương pháp trị liệu cho người nghiện hút. Ngoài ra, triều đình đã có lệnh cấm các thuyền buôn từ Tân Châu (Trung Quốc) vào Việt Nam và khám xét tất cả các thuyền buôn nước ngoài vào các cảng dọc bờ biển nước ta.
- Thứ hai là, khen thưởng rất hậu cho người phát hiện hoặc cáo giác đúng. Như luật năm 1840 ghi: “Người nào phát hiện kẻ tàng trữ, buôn bán thuốc phiện dưới 1kg thì thưởng 100 quan tiền, trên 1kg thì thưởng 150 quan tiền, từ 3kg trở lên được thưởng thêm. Quan lại khám xét ra được thưởng số tiền tương đương một nửa vật chứng và được thăng một cấp”.
- Thứ ba là, chú trọng biện pháp điều trị cho người nghiện hút. Triều đình có lệnh cho những người nghiện hút hạn trong 6 tháng phải ra khai báo và cai nghiện. Các quan địa phương phải chú ý giúp người nghiện hút tìm ra biện pháp, phương pháp cai nghiện có hiệu quả.
Thời kỳ thực dân Pháp xâm lược
Sau khi thực dân Pháp xâm chiếm nước ta, Pháp đã hợp pháp hoá việc buôn bán, sử dụng thuốc phiện ở nước ta coi đó là công cụ để cai trị nước ta cũng như tìm kiếm lợi nhuận một cách đơn giản, hiệu quả nhất. Để thực hiện chính sách ngu dân và vơ vét tài nguyên, tiền của ở Đông Dương, nhà cầm quyền Pháp cho công khai phát triển trồng cây thuốc phiện, thành lập các cửa hàng bán thuốc phiện tự do dưới sự quản lý của Công quản nha phiến. Diện tích trồng cây thuốc phiện tăng nhanh, tuy nhiên sản phẩm phải bán cho cơ quan quản lý. Người hút thuốc phiện được tự do. Vì vậy, việc trồng, buôn bán và sử dụng thuốc phiện phát triển rất mạnh. Trình độ dân trí thấp, đời sống nhân dân nghèo đói nhưng tệ nạn nghiện hút lan tràn, phổ biến trong xã hội.
Ngày 28/12/1861, Tướng hải quân Pháp Bonnar đã ban hành văn bản gồm 84 điều quy định việc mua bán, sử dụng thuốc phiện tại Nam Kỳ (thuộc địa Pháp). Theo đó, chính quyền cho phép nhập khẩu thuốc phiện qua 2 cảng Sài Gòn và Chợ Lớn và thu thuế 10% giá trị lô hàng. Hàng năm chính quyền tổ chức đấu thầu việc nhập khẩu, mua bán thuốc phiện. Người trúng thầu sẽ được độc quyền nhập khẩu và tổ chức bán lẻ thuốc phiện (doanh số nhập khẩu thuốc phiện năm 1860 vào Nam kỳ lên tới 500.000 quan Pháp, chiếm 50% giá trị hàng nhập khẩu).
Trước tình hình Pháp hợp thức hoá việc kinh doanh thuốc phiện tại Nam kỳ, chính quyền phong kiến Việt nam cũng bãi bỏ các văn bản pháp luật về thuốc phiện của vua Minh Mạng. Năm 1863, trong Quốc triều chinh biến, vua Tự Đức quy định: “Nay thôi cấm mà đánh thuế thật nặng để người bán ít đi, từ đó người hút ít theo”. Chỉ sau 10 năm kể từ khi vua Minh Mạng qua đời tệ nạn nghiện hút thuốc phiện ở Việt Nam đã gia tăng mạnh mẽ.
Tháng 6/1873, trước tình hình tệ nạn thuốc phiện ngày càng nghiêm trọng, nhà nước phong kiến Việt Nam lại ban hành trở lại lệnh “cấm nha phiến”. Khi đó vua Tự Đức quy định: “Hễ cử nhân, tú tài, học trò nghiện thuốc phiện thì cho thời hạn 1 năm phải chữa xong. Ai không tuân thì tước tịch, bắt chịu sưu thuế; học trò không được thi khoá nữa”. Nhưng những biện pháp này đã không mang lại hiệu quả mong muốn.
Đây là một giai đoạn mà sự lan tràn tệ nạn ma tuý diễn ra công khai, trầm trọng, đã để lại cho dân tộc ta hậu quả nặng nề mà ngày nay chúng ta đang phải kiên quyết loại bỏ.
Vào đầu năm 1952, Chính phủ chỉ quy định việc xử lý đối với hành vi vi phạm thể lệ quản lý thuốc phiện, quy định khoanh vùng trồng cây thuốc phiện, người trồng cây thuốc phiện có nghĩa vụ nộp thuế bằng 1/3 số thuốc phiện nhựa, phần còn lại phải bán cho mậu dịc quốc doanh; nghiêm cấm việc tàng trữ vận chuyển nhựa thuốc phiện. Đến cuối năm 1952, Chính phủ quy định người có hành vi vi phạm thể lệ quản lý thuốc phiện, bị tịch thu thuốc phiện, bị phạt tiền đến năm lần giá trị thuốc phiện hoặc bị truy tố trước Tòa án.
Sau khi miền Bắc hoàn toàn giải phóng
Sau khi miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, ngày 15/9/1955 Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định 580-TTg quy định cụ thể những trường hợp phải đưa ra truy tố trước Tòa án như: Buôn lậu thuốc phiện có nhiều người tham gia, có thủ đoạn gian dối; trị giá hàng phạm pháp trên 1 triệu đồng; người buôn bán thuốc phiện nhỏ hoặc làm môi giới có tính chất thường xuyên, chuyên nghiệp sau khi đã bị phạt tiền nhiều lần mà còn vi phạm; hành vi vi phạm có liên quan đến nhân viên chính quyền hoặc bộ đội; đã có quyết định phạt tiền của cơ quan Thuế vụ hoặc Hải quan. Để cụ thể hóa đường lối xét xử đối với hành vi phạm tội về thuốc phiện, ngày 29/3/1958 và ngày 7/5/1958, Bộ Tư pháp ban hành Thông tư số 635-VHH/HS và Thông tư số 33-VHH/HS hướng dẫn đường lối truy tố, xét xử những hành vi buôn lậu thuốc phiện.
Sau khi đất nước thống nhất, ngày 25/3/1977, Hội đồng Chính phủ đã ban hành Nghị định 76-CP về chống buôn lậu thuốc phiện; Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ cũng đã ban hành các Thông tư hướng dẫn áp dụng pháp luật khi điều tra, truy tố, xét xử tội phạm nói chung và tội phạm buôn lậu thuốc phiện nói riêng.
Đến năm 1980, tình hình tàng trữ, vận chuyển, mua bán, sử dụng ma túy ở nước ta có chiều hướng gia tăng, đặc biệt là tình trạng mua bán, vận chuyển không chỉ có thuốc phiện mà còn là các chất ma túy khác qua biên giới vào nước ta và từ nước ta đi một số nước trên thế giới, do ảnh hưởng của các nước khu vực và các nước có đường biên giới cùng với nước ta. Trước tình hình như vậy, tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa VII đã thông qua BLHS năm 1985. Đây là Bộ luật hình sự đầu tiên của nước ta quy định về tội phạm và hình phạt. Tuy nhiên, khi ban hành BLHS năm 1985 mới chỉ có một điều quy định tội phạm về ma túy (Điều 203-Tội tổ chức sử dụng chất ma túy) và hai điều có liên quan đến ma túy (Điều 97-Tội buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới và Điều 166-Tội buôn bán hàng cấm). Nếu hành vi buôn bán ma túy trong nước thì bị áp dụng Điều 166 BLHS, còn nếu buôn bán vận chuyển ma túy qua biên giới thì bí áp dụng Điều 97 BLHS. Còn lại các hành vi khác như tàng trữ, chiếm đoạt, sản xuất, sử dụng, vận chuyển trong nước đối với các chất ma túy chưa bị coi là tội phạm.
Do tình hình buôn bán, tàng trữ, vận chuyển ma túy ngày càng gia tăng và diễn biến rất phức tạp, nếu chỉ áp dụng Điều 97 và 166 BLHS để xử lý các hành vi phạm tội về ma túy thì không đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng, chống đối với loại tội phạm này, nên ngày 28/12/1989 Quốc hội đã bổ sung Điều 96a quy định tội sản xuất, tàng trữ, mua bán, vận chuyển trái phép chất ma túy. Sau khi BLHS được sửa đổi bổ sung, tình hình phạm tội về ma túy vẫn không giảm mà càng gia tăng và diễn biến vô cùng phức tạp, quy định tại Điều 96a cũng không thể đáp ứng đầy đủ yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm về ma túy, mặc dù các cơ quan tiến hành tố tụng ở Trung ương đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn xử lý hành vi có liên quan đến ma túy nhưng cũng không thể ngăn chặn được tệ nạn này. Ngày 10/5/1997, một lần nữa Quốc hội lại sửa đổi bổ sung BLHS quy định hẳn một chương (Chương VIIA) gồm 14 điều quy định tương đối đầy đủ các hành vi phạm tội mà thực tiễn đấu tranh đặt ra.
Từ ngày thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Chính phủ đã có nhiều văn bản pháp luật để đấu tranh ngăn chặn ma tuý, như Sắc luật 03 và quy định trong BLHS năm 1985. Để làm tốt công tác phòng ngừa, ngăn chặn và đấu tranh có hiệu quả với tội phạm về ma túy thì vấn đề rất quan trọng là phải có một hệ thống pháp luật đồng bộ, tạo hành lang pháp lý để các cơ quan bảo vệ pháp luật hoạt động có hiệu quả cao, phát hiện và xử lý nghiêm khắc tội phạm. Ba công ước của Liên hợp quốc về kiểm soát ma túy đã ban hành khá lâu, đựơc hơn 100 nước trên thế giới phê chuẩn nhưng đến ngày 01 tháng 9 năm 1997 Việt Nam mới tham gia. Chính sách hình sự của Nhà nước ta về tội phạm ma túy thời gian trước đây có phần chậm đổi mới.
Ngày 12/8/1991, BLHS được sửa đổi, bổ sung Điều 96a, tội sản xuất, tàng trữ, mua bán, vận chuyển trái phép các chất ma túy và quy định mức hình phạt nghiêm khắc hơn. Tuy nhiên, tội phạm về ma túy vẫn diễn biến phức tạp và tăng nhanh, gây ra hậu quả rất nặng nề cho xã hội.
Vì vậy, đấu tranh ngăn chặn ma tuý đã được quy định trong Hiến pháp năm 1992. Điều 61 của Hiến pháp quy định nghiêm cấm sản xuất, vận chuyển, buôn bán, tàng trữ, sử dụng trái phép thuốc phiện và các chất ma tuý khác. Nhà nước quy định chế độ bắt buộc cai nghiện và chữa các bệnh xã hội nguy hiểm khác.
Cụ thể hoá những tư tưởng trong Hiến pháp năm 1992, Đảng và Nhà nước ta đã đổi mới chính sách hình sự đối với tội phạm về ma túy. Thể hiện trước tiên, năm 1997, Nhà nước đã tiếp tục sửa đổi, bổ sung BLHS, trong đó tội phạm về ma túy được quy định thành một chương riêng, Chương VIIA gồm 14 điều có 13 tội cụ thể. Chính sách hình sự mới thể hiện thái độ kiên quyết trừng trị nghiêm khắc các tội phạm về ma túy. Song, hệ thống pháp lý chưa hoàn chỉnh đã gây khó khăn cho thực tiễn phòng, chống ma túy, do vậy việc sửa đổi BLHS năm 1985 chỉ là biện pháp tình thế.
Bộ Luật Hình sự năm 1999
Tình hình kinh tế, xã hội và thực tiễn đấu tranh chống tội phạm đã có nhiều biến đổi, đòi hỏi BLHS phải được sửa đổi toàn diện. Do đó, ngày 21 tháng 12 năm 1999 BLHS mới được Quốc hội thông qua (gọi tắt là BLHS năm 1999), trong đó có chương XVIII quy định các tội phạm về ma túy gồm 10 điều luật được quy định và bổ sung một số tội danh mới như:
Điều 192. Tội trồng cây thuốc phiện hoặc các loại cây khác có chứa chất ma túy.
Điều 193. Tội sản xuất trái phép chất ma túy.
Điều 194. Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt trái phép chất ma túy.
Điều 195. Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy.
Điều 196. Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển mua bán các phương tiện, dụng cụ dùng vào việc sản xuất hoặc sử dụng trái phép chất ma túy.
Điều 197. Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy.
Điều 198. Tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy.
Điều 199. Tội sử dụng trái phép chất ma túy.
Điều 200. Tội cưỡng bức, lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma túy.
Điều 201. Tội vi phạm quy định về quản lý, sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma túy khác.
BLHS còn định lượng các chất ma tuý trong từng khung hình phạt, tăng nặng mức hình phạt, nâng cao hình phạt tiền và tịch thu tài sản, thêm một số hình phạt bổ sung khác, đó là những điểm mới quan trọng nhất trong chính sách hình sự của Nhà nước Việt Nam về tội phạm ma tuý. Để hoàn thiện thêm hệ thống pháp luật về phòng, chống ma túy, ngày 9/12/2000, kỳ họp thứ 8 Quốc hội khoá X đã thông qua Luật Phòng, chống ma túy.
“Phi hình sự hóa” đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy
Ngày 19/6/2009, tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XII đã thông qua Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 1999. Việc ban hành luật này đánh dấu bước tiến quan trọng trong tiến trình từng bước hoàn thiện pháp luật hình sự của Nhà nước ta, góp phần khắc phục những hạn chế, bất cập của BLHS, đáp ứng yêu cầu thực tiễn đang đặt ra và bảo đảm hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
Luật sửa đổi, bổ sung BLHS đã thể chế hóa chính sách nhân đạo của Đảng và Nhà nước; hình sự hóa các hành vi nguy hiểm cho xã hội đòi hỏi phải xử lý về hình sự mới xuất hiện trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội, khoa học, công nghệ và hội nhập quốc tế, nhất là các hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực công nghệ thông tin, chứng khoán, tài chính - kế toán, sở hữu trí tuệ trong hợp tác quốc tế về chống khủng bố, chống mua bán phụ nữ, trẻ em…; phi hình sự hóa một số hành vi bị coi là tội phạm trong BLHS năm 1999 nay không còn nguy hiểm cho xã hội nữa.
Theo đó, bỏ hình phạt tử hình ở 8 điều luật trong đó có Khoản 4 Điều 197 (Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy) BLHS năm 1999 quy định người thực hiện hành vi phạm tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình: gây tổn hại cho sức khỏe của nhiều người mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên; gây chết nhiều người hoặc gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác. Theo Luật Sửa đổi, bổ sung BLHS, người thực hiện hành vi phạm tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp nêu trên thì bị phạt tù 20 năm hoặc tù chung thân.
Khoản 3 điều 1 Luật Sửa đổi, bổ sung BLHS nhà làm luật đã phi hình sự hóa (hoàn toàn) 4 tội danh trong BLHS, trong đó có tội sử dụng trái phép chất ma túy. Việc bãi bỏ điều luật này, thể hiện tính nhân đạo của pháp luật hình sự nhưng cũng xác định rõ trong thời gian qua các hành vi nêu trên không còn nguy hiểm cho xã hội nữa. Việc bỏ tội sử dụng trái phép chất ma túy là xuất phát từ thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm trong thời gian qua cho thấy hiệu quả răn đe, phòng ngừa chung của việc xử lý hình sự đối với hành vi vi phạm này không cao. Hiệu quả giáo dục, cải tạo, phục hồi đối với người phạm tội sử dụng trái phép chất ma túy là rất hạn chế. Mặt khác, người phạm tội sử dụng trái phép chất ma túy trong thực tế rất nhiều, không có khả năng xử lý bằng hình sự hết được, xảy ra tình trạng không công bằng của pháp luật. Hành vi sử dụng trái phép chất ma túy là hành vi vi phạm pháp luật, nhưng dưới góc độ xã hội thì người nghiện ma túy được coi là nạn nhân của một tệ nạn.
Hơn nữa, việc không coi hành vi sử dụng trái phép chất ma túy là tội phạm không có nghĩa là dung túng đối với hành vi này mà cần có biện pháp xử lý hiệu quả, bền vững hơn như biện pháp bắt buộc chữa bệnh, nâng cao các biện pháp điều trị y tế kết hợp với lao động, giáo dục tại gia đình và cộng đồng. Trường hợp người nghiện ma túy mà có hành vi phạm tội thì sẽ bị xử lý hình sự theo các tội danh tương ứng của BLHS. Bên cạnh đó, tham khảo pháp luật nước ngoài cho thấy pháp luật hình sự nhiều nước trên thế giới không coi hành vi sử dụng trái phép chất ma túy là tội phạm.
Bỏ hình phạt tử hình với tội tàng trữ trái phép chất ma túy, tội chiếm đoạt chất ma túy
Vừa qua, ngày 27/11, tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Bộ luật hình sự 2015. Theo giải trình của Ủy ban Thường vụ Quốc hội (TVQH), đa số ĐBQH cho rằng, trong điều kiện hiện nay, việc giảm hình phạt tử hình là cần thiết. Theo đó, 7 tội danh có hình phạt tử hình đã được bỏ trong Bộ luật hình sự 2015, đó là: Tội cướp tài sản; Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm; Tội tàng trữ trái phép chất ma túy; Tội chiếm đoạt chất ma túy; Tội phá huỷ công trình, cơ sở, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia; Tội chống mệnh lệnh; Tội đầu hàng địch.
Dự thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi) đã tách Điều 194 BLHS năm 1999 thành 4 tội danh độc lập: tội tàng trữ, tội vận chuyển, tội mua bán trái phép và tội chiếm đoạt chất ma túy. Đồng thời chỉ giữ lại hình phạt tử hình đối với tội mua bán trái phép chất ma túy, các tội danh khác thì mức hình phạt cao nhất là tù chung thân. Tuy nhiên khi Bộ Luật Hình sự được thông qua, chỉ có 2 tội danh về ma túy được bỏ hình phạt tử hình là Tàng trữ trái phép chất ma túy và Tội chiếm đoạt chất ma túy. Việc không bỏ hình phạt tử hình đối với tội vận chuyển trái phép chất ma tuý được nhiều đại biểu Quốc hội đồng tình.
Thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm ma túy cho thấy, tình hình tội phạm, tệ nạn ma túy trên thế giới và khu vực có nhiều diễn biến phức tạp. Tính đến nay, vẫn còn hơn 200 triệu người nghiện các chất ma túy.
Trong những năm gần đây tình hình tội phạm ma túy ở nước ta chủ yếu là mua, bán, vận chuyển trái phép chất ma túy diễn biến rất phức tạp, có chiều hướng gia tăng, dẫn đến tình trạng nghiện ma túy, nguy cơ các tội phạm khác, làm mất trật tự trị an. Chỉ tính riêng 9 tháng đầu 2015, các lực lượng chức năng đã phát hiện, điều tra, xử lý 10.915 vụ phạm tội về ma túy với 13.800 bị can, với số lượng heroin thu giữ tăng 91,75% và số lượng ma túy tổng hợp thu giữ tăng 122% so với cùng kỳ năm 2014.
Trong thực tiễn có khoảng 60% số vụ ma tuý được phát hiện, xử lý với số ma tuý vận chuyển rất lớn. Do nhiều nguyên nhân không thể kiểm tra, kết luận hành vi buôn bán nên phải truy tố với tội danh vận chuyển. Hầu như các đối tượng bị bắt xác nhận họ chỉ là người vận chuyển thuê. Hiện tội phạm vận chuyển ma tuý qua biên giới ngày càng phức tạp, đã hình thành các tổ chức chuyên vận chuyển ma tuý, các nhóm từ 10 - 20 người, có vũ trang, hoạt động liên tục, vận chuyển khối ma tuý rất lớn vào nội địa.
Vì vậy, việc không bỏ hình phạt tử hình đối với tội vận chuyển trái phép chất ma túy là hết sức cần thiết, nhằm đảm bảo răn đe tội phạm, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm ở nước ta trong tình hình hiện nay.
* Bài viết tham khảo nguồn tư liệu của Tòa án nhân dân TPHCM, Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy (Bộ Công an)