Ma tuý dạng Amphetamine - Bài 1: Tổng quan về việc sử dụng và tác hại của ATS

18/08/2015 15:23

Vấn đề sử dụng các chất ma tuý dạng amphetamine (ATS) ngày càng nổi cộm tại Đông và Đông Nam Á trong 2 thập kỷ qua. ATS bao gồm methamphetamine, amphetamine, 3,4-methelyne-dioxymethamphetamine (MDMA, hoặc “thuốc lắc”) và các chất tổng hợp liên quan khác.

Các loại ma túy này đã xuất hiện từ lâu trong khu vực, nhưng việc sử dụng nó chỉ nở rộ trong những năm gần đây, kể cả tại các khu vực “sân nhà” trước đây của ma túy dạng thuốc phiện (ví dụ thuốc phiện và heroin). Ngày nay, ATS đã là một mảng quan trọng trong bức tranh về ma túy tại Đông và Đông Nam Á, tại rất nhiều quốc gia chúng được xem là vấn đề ma túy hàng đầu. Tuy nhiên, phần lớn các nỗ lực ứng phó với tình hình ma túy trong khu vực lại được xây dựng với mục tiêu chính là các chất dạng thuốc phiện.

Trên thực tế, khu vực Đông - Đông Nam Á là một trong những vùng bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi việc sử dụng ATS trên toàn cầu, nhưng khu vực này cũng bao gồm các quốc gia nằm trong nhóm những quốc gia thiếu chuẩn bị nhất để ứng phó với  ATS. ATS mang đến những thách thức mới, cả về mặt hiểu biết về bản chất của việc sử dụng so với các ma túy chất dạng thuốc phiện, cũng như làm cách nào để ứng phó tốt nhất với vấn đề này.

Trang tin điện tử Tiếng Chuông xin giới thiệu bài nghiên cứu TS. Rebecca McKetin - Đại học Quốc gia Úc, và TS. Jih-Heng Li - Đại học Y khoa Cao Hùng, Đài Loan để đưa ra một cái nhìn toàn cảnh về việc sử dụng ATS và các phương pháp giải quyết tiềm năng với tình hình ATS tại Đông và Đông Nam Á, rút ra các bài học từ kinh nghiệm quốc tế, và xem xét một số vấn đề tiềm ẩn khi thực hiện các biện pháp khác nhau trong khu vực.

Ma tuý tổng hợp ATS

Bài 1: Tổng quan về việc sử dụng và tác hại của ATS

Số người sử dụng ATS  ước tính đạt từ 14 đến 53 triệu người trên toàn thế giới (theo số liệu của UNODC năm 2010). Hình thái sử dụng thay đổi từ việc sử dụng với mục đích tiêu khiển tới việc sử dụng có vấn đề nặng. Không có số liệu chính thức nào về số người sử dụng ATS có vấn đề. Tuy nhiên, một nghiên cứu gần đây ước tính rằng một nửa số người sử dụng ATS từ 5 lần trở lên sẽ mắc một dạng hội chứng rối loạn sử dụng chất kích thích. Vì vậy chúng ta cần lưu ý rằng mặc dù những ma túy này thường được xem là ‘để tiêu khiển’ (ví dụ: trong trường hợp sử dụng thuốc lắc) chúng có thể tạo thành gánh nặng lớn cho ngành y tế công cộng. Thật vậy, ở Mỹ, chi phí điều trị phụ thuộc methamphetamine chiếm ít nhất 75% chi phí điều trị phụ thuộc heroin của mỗi bệnh nhân.

Các hậu quả của việc sử dụng ATS phụ thuộc nhiều vào loại ATS. Thuốc lắc được sử dụng phổ biến nhất để tiêu khiển và vẫn chưa có chứng cứ rõ ràng về tính gây nghiện của loại ma tuý này. Bản chất và mức độ nghiêm trọng của các tác hại từ việc sử dụng thuốc lắc vẫn còn gây tranh cãi. Đã có những quan ngại xung quanh khả năng gây nhiễm độc thần kinh của ma túy này, những thay đổi kèm theo với trí nhớ, và nguy cơ gia tăng trầm cảm hoặc các bệnh lý tâm thần khác. Tuy nhiên, không rõ ràng liệu liều sử dụng của những người sử dụng để tiêu khiển có đủ để gây ra các thay đổi lâu dài có tác động đáng kể đến chức năng của não bộ hay không. Mặc dù việc sử dụng ma túy luôn đi kèm với nguy cơ sốc thuốc hoặc gây tử vong thông qua các tác động xấu lên hệ tim mạch, nguy cơ tử vong vẫn thấp hơn so với các ma túy dạng thuốc phiện. 

Ngược lại, methamphetamine có thể gây ra hội chứng phụ thuộc nghiêm trọng được cho là nguyên nhân dẫn đến tình trạng tái sử dụng mãn tính và gia tăng tỷ lệ bệnh tật và tử vong. Amphetamine có các tính chất dược lý tương tự với methamphetamine, nhưng có ít gây hưng phấn (euphoriant) hơn, và do đó thường được coi là “ít tai hại” hơn về phương diện khả năng gây nghiện. Các tác hại lớn nhất của amphetamine và methamphetamine tương tự nhau, bao gồm nguy cơ gây trạng thái hoang tưởng và hung hãn, gia tăng nguy cơ bị đột quỵ và các vấn đề tim mạch. Các loại ma túy này cũng làm tăng nguy cơ lây nhiễm HIV thông qua tiêm chích, gia tăng ham muốn tình dục và các hành vi tình dục nguy cơ liên quan, và làm tổn hại chức năng hệ miễn dịch. Việc phụ thuộc vào amphetamine và methamphetamine, cũng như với bất cứ loại ma túy nào, thường kéo theo các hệ quả về xã hội và sự nghiệp (ví dụ như thất nghiệp, đổ vỡ các mối quan hệ và cuốn vào hoạt động tội phạm).

Một yếu tố then chốt để quyết định những nguy cơ sức khoẻ liên quan tới các chất kích thích này là cách sử dụng: ví dụ qua đường tiêm chích, hút, hít hay uống. Tiêm chích thường gây ra nhiều tác hại nhất, bao gồm việc phụ thuộc vào ma túy; tiếp đến là sử dụng bằng cách hút và cuối cùng là sử dụng qua đường mũi (hít) và miệng (uống). Sử dụng không qua đường tiêm chích thường gặp trong nhóm những người sử dụng trẻ với mục đích tiêu khiển, những người có xu hướng sử dụng với tần suất thưa hơn, tương ứng với tác hại thấp hơn. Trong bối cảnh này, ưu tiên cần được dành cho việc giảm tối thiểu các tác động có hại của việc nhiễm độc cấp tính (ví dụ như quá liều, tai nạn), và hạn chế khả năng dẫn đến sự phụ thuộc, vì điều này có thể gia tăng hành vi sử dụng mãn tính cũng như các vấn đề sức khỏe nghiêm trọng.

Tương tự như các loại ma túy khác, hội chứng phụ thuộc vào ATS thường hình thành vào cuối những năm thiếu niên qua các năm đầu tuổi hai mươi, nhiều năm sau khi bắt đầu sử dụng. Xung quanh thời điểm này trong vòng đời sử dụng ATS, tần suất sử dụng tăng lên (ví dụ như: ít nhất hàng tuần, nếu không phải là nhiều ngày một tuần) và một sự chuyển đổi thường thấy là từ uống hoặc hít ma túy sang phương pháp sử dụng có hiệu lực mạnh hơn, chẳng hạn như hút hoặc tiêm chích.  Các phương pháp sử dụng hiệu quả hơn dẫn đến tính sinh khả dụng cao hơn, cho phép người dùng sử dụng ít ma túy hơn để đạt được tác dụng như nhau (nhờ vậy đảm bảo hiệu quả về mặt kinh tế). Các phương pháp sử dụng này cũng tạo ra cơn “phê” nhanh và mạnh hơn, đồng thời cũng đẩy nhanh sự phát triển của cơn thèm nhớ và độ dung nạp, làm tăng nguy cơ phụ thuộc vào ATS.

Những người sử dụng ATS cũng thường sử dụng nhiều loại ma túy khác, phổ biến nhất là tobacco, rượu và cần sa. Người dùng thường sử dụng các loại ma túy này trước khi tiếp xúc với ATS, và sẽ tiếp tục sử dụng song song với ATS, dẫn đến hiện tượng đồng sử dụng ma túy. Việc sử dụng các loại ma tuý khác đồng thời với ATS có thể do các tác dụng kết hợp của chúng (vd: nhiễm độc chất kích thích có thể dẫn đến uống rượu nhiều) hoặc để giảm bớt các hệ quả của ATS (ví dụ: hút cần sa). Tương tự, những người phụ thuộc vào ATS thường đã phụ thuộc sẵn vào cần sa hoặc các ma túy khác, và họ có thể tiến tới phụ thuộc vào các ma túy dạng thuốc phiện trong quá trình sử dụng. Những người bị phụ thuộc có thể sử dụng thuốc an thần liều cao, nhằm giúp điều tiết triệu chứng “vã” chất kích thích và để dễ ngủ. Những người tiêm chích chất dạng thuốc phiện cũng có thể tiêm chích ATS (thường là methamphetamine hoặc amphetamine), tuỳ vào mức độ phổ cập của các loại ma tuý.

Cuối cùng, những người sử dụng ATS, đặc biệt là những người bị phụ thuộc vào dòng ma túy này, thường có các vấn đề sức khỏe tâm thần và thể chất đồng diễn được phát hiện khi đi khám sức khoẻ. Các vấn đề sức khỏe tâm thần thường gặp nhất ở những người sử dụng chất kích thích. Trầm cảm ở mức độ cao khá phổ biến, thường xuất hiện lần đầu trước khi bắt đầu sử dụng ma túy, sau đó ngày càng trầm trọng hơn do tác động của việc sử dụng ATS. Các loại ATS tương đối mạnh (methamphetamine và amphetamine) cũng có thể gây ra một số vấn đề tâm thần nhất định. Nguy hiểm hơn, sử dụng liều cao có thể dẫn đến loạn thần nhất thời (hoang tưởng và ảo giác). Chứng hoang tưởng do nhiễm độc thường được biểu hiện qua sự lo âu và các hành vi bạo lực bất ngờ hoặc vô lý. Các dạng hành vi bạo lực vô lý thường được gây ra do suy nghĩ ảo tưởng dẫn tới hiểu sai các sự kiện (vd: người sử dụng có thể cảm thấy họ đang bị đe dọa hoặc gặp nguy hiểm) cùng với khả năng phán xét và kiềm chế kém do bị nhiễm độc và bị kích thích bởi ATS.

(Còn tiếp)

Bài 2: Sử dụng ATS tại Đông và Đông Nam Á

}
Top