Ma tuý dạng Amphetamine - Bài 2: Sử dụng ATS tại Đông và Đông Nam Á
Việc sử dụng ATS có một lịch sử dài tại khu vực Châu Á, đầu tiên methamphetamine được sử dụng tại Đông Á, sau đó ATS dạng viên bắt đầu xuất hiện tại Đông Nam Á (phần lớn chúng cũng chứa methamphetamine), và cuối cùng thuốc lắc và các ma túy tổng hợp khác bắt đầu xuất hiện tràn lan trên toàn khu vực. Ngày nay khu vực này chiếm gần một nửa nguồn cung methamphetamine toàn cầu và được cho là có tỷ lệ sử dụng ATS cao hơn bất cứ khu vực nào trên thế giới.
ATS đang thách thức sự áp đảo của thuốc phiện và heroin, những loại ma tuý lâu đời hơn trong khu vực. Tuy nhiên, hình thái sử dụng ATS cũng như thành phần người sử dụng ATS đa dạng hơn rất nhiều so với ma túy dạng thuốc phiện thường thấy. Thị trường ATS rất sôi nổi, các loại ATS được tiêu thụ cũng như cách chúng được sử dụng biến động thường xuyên và liên tục. Chương này phác thảo lịch sử tiêu thụ ATS tại khu vực và những yếu tố dẫn tới các xu hướng ATS hiện tại.
Lịch sử sử dụng ATS tại Đông Á
Thời kỳ Thế chiến thứ 2, methamphetamine được cả quân Phát-xít và quân Đồng Minh sử dụng để tăng “nỗ lực chiến đấu”. Methamphetamine rất dễ tiếp cận từ các nguồn trong quân đội và các công ty dược phẩm cho công chúng mà không cần đơn thuốc, và đây cũng là nguyên nhân Nhật Bản đã phải gánh chịu đại dịch methamphetamine đầu tiên trên thế giới, diễn ra từ năm 1945 đến năm 1956. Đại dịch này lắng đi sau khi một loạt các biện pháp hành chính được triển khai, bao gồm việc hạn chế phân phối và ban hành đạo Luật Kiểm soát Chất kích thích vào năm 1951, sửa đổi vào năm 1954 và 1955, trong đó tăng cường các hình phạt và thắt chặt kiểm soát các hóa học tiền chất được sử dụng trong việc sản xuất ma túy. Đại dịch methamphetamine xuất hiện lại ở Nhật Bản vào năm 1970 khiến Luật Kiểm soát Chất kích thích một lần nữa được sửa đổi, vào năm 1973, để tăng các hình phạt đối với các vi phạm chất kích thích lên cùng mức với các vi phạm heroin. Số lượng tội phạm liên quan đến chất kích thích tạm thời giảm 30% vào năm 1974 nhưng sau đó lại tăng trở lại vào năm 1975.
Cùng thời điểm ấy, vào những năm đầu 1970, việc sản xuất lậu methamphetamine bắt đầu gia tăng tại Hàn Quốc. Có lẽ phần nào hiện tượng này là hệ quả của việc thắt chặt quy định pháp lý ở Nhật Bản dẫn đến sự chuyển đổi sản xuất methamphetamine sang nước láng giềng Hàn Quốc (Byung, 1991). Vào giai đoạn đầu, vấn đề methamphetamine được xem là chỉ giới hạn trong việc sản xuất và buôn lậu bất hợp pháp để xuất khẩu sang nước láng giềng Nhật Bản. Tuy nhiên, đến cuối những năm 1970, sản lượng ma tuý ở Hàn Quốc cũng đã cung cấp ma túy cho thị trường nội địa, và rất methamphetamine bắt đầu chiếm lĩnh thị trường Hàn Quốc (Byung, 1991). Để đối phó, Chính phủ Hàn Quốc ban hành Đạo luật Kiểm soát Thuốc Hình thành Thói quen vào năm 1970 mà sau đó được thay thế bằng Đạo luật Kiểm soát Thuốc Hướng thần vào năm 1979.
Đài Loan về cơ bản không có ma túy từ những năm 1950 tới những năm 1970 nhưng vào đầu những năm 1990 methamphetamine đã tràn vào đảo quốc này và phát triển mạnh mẽ. Đối mặt với tình hình báo động đó, “Đạo luật về Xóa bỏ Ma túy chất ma túy Bất hợp pháp” lỗi thời đã được sửa đổi thành “Đạo luật Dự phòng và Kiểm soát Nguy hại Ma túy” vào năm 1998. Đạo luật mới này khác với phiên bản trước đó ở việc áp dụng các biện pháp kiểm soát không chỉ với các chất ma túy truyền thống (đơn cử như thuốc phiện và cần sa) mà còn với các chất hướng thần như methamphetamine, benzodiazepines, và các tiền chất của chúng.
Kể từ những năm 1970, Nhật Bản đã lần lượt trải qua nhiều đại dịch, bao gồm đỉnh điểm gần đây vào năm 1999 - 2000 hiện đã dần ổn định. Mặc dù tỷ lệ hiện nhiễm nhìn chung khá thấp (0.4%), methamphetamine vẫn là ma túy bất hợp pháp được sử dụng rộng rãi nhất tại Nhật Bản. Tại Hàn Quốc, thị trường nội địa đã bắt đầu hấp thụ một số lượng lớn ma túy vào cuối những năm 1980 và ma tuý đã thẩm thấu đến tất cả các cấp xã hội từ những năm 1990. Gần đây, những người sử dụng ma tuý ở độ tuổi thanh thiếu niên đã bắt đầu mở rộng các dạng ma tuý được sử dụng bao gồm methamphetamine dạng viên (ya ba), lysergic acid diethylamide (thuốc gây ảo giác LSD), thuốc lắc (MDMA) và các loại ma tuý tổng hợp khác, và các thuốc giảm đau mạnh như nalbuphine HCl. Tại Đài Loan, mặc dù tỉ lệ các ca tâm thần liên quan tới methamphetamine và xét nghiệm sàng lọc ma tuý bằng nước tiểu dương tính với methamphetamine vẫn là một mối quan tâm lớn, nhưng đã bắt đầu giảm dần. Ngược lại, việc sử dụng ma túy ”tiệc tùng” như MDMA, ketamine, flunitrazepam (Rohypnol, cũng được biết tới là FM2), và amphetamines, đã trở nên phổ biến tại các bữa tiệc say sưa và sàn nhảy.
Sự gia tăng của việc sử dụng ATS tại Đông Nam Á
Đông Nam Á vẫn chưa bị ảnh hưởng nhiều bởi ATS cho tới những năm 1990, khi có sự chuyển đổi lớn trong các hình thái sử dụng ma túy với sự xuất hiện của ATS dạng viên tại tiểu vùng Mê-kông. Xu hướng này xuất hiện lần đầu tại Thái Lan từ khoảng năm 1995 với nguồn cung từ việc buôn lậu số lượng lớn methamphetamine dạng viên từ nước láng giềng Myanmar. Kèm theo áp lực quốc tế để dập tắt việc buôn bán thuốc phiện, việc buôn bán ma túy tại phía đông bắc của nước này (bang Shan) trở nên rõ nét với việc sản xuất methamphetamine quy mô lớn. Methamphetamine sản xuất tại khu vực này được nén thành viên với mẫu mã đặc trưng: mỗi viên chứa khoảng 5 mg methamphetamine, thường đi kèm với ketamine, có mầu da cam/hồng và có biểu tượng của Quân đội Bang Wa, ‘WY’. Vào thời gian này, mỗi năm ước tính hàng trăm triệu viên được sản xuất tại khu vực bang Shan của Myanmar. Những viên methamphetamine này được lén vận chuyển bằng đường bộ và sau đó dọc theo sông Mê-kông vào Thái Lan và các quốc gia láng giềng.
Methamphetamine nhanh chóng đạt đến quy mô đại dịch ở Thái Lan, đỉnh điểm là với "Cuộc chiến chống ma tuý Thái Lan". Ma túy viên thường được hút, đôi khi nhiều lần một ngày với những người sử dụng thường xuyên. Methamphetamine nối ngôi heroin trở thành ma túy chính đẩy thanh thiếu niên vào các cơ sở điều trị ma túy. Các trường hợp bắt giữ do methamphetamine cũng nhanh chóng vượt qua các ma túy khác. Việc sử dụng methamphetamine dạng viên, hay “ya ba” (nghĩa là thuốc điên), vẫn là một vấn đề bức xúc hiện nay, mặc dù tình hình đã trở nên phức hơn nhiều với sự xuất hiện của ngày càng nhiều dạng ATS phổ biến, bao gồm methamphetamine kết tinh (đá) và thuốc lắc.
Việc chuyển sang sử dụng methamphetamine tại Thái Lan báo trước một làn sóng sản xuất và sử dụng ATS trong tiểu vùng Mê-kông. Cam-pu-chia, Lào và Việt Nam đều cho thấy sự gia tăng về nguồn cung và sử dụng ATS, còn tại Cam-pu-chia và Lào, methamphetamine đã trở thành loại ma túy đáng ngại nhất. ATS dạng viên tại khu vực này vẫn bao gồm methamphetamine, nhưng chúng đã đa dạng hơn về thành phần và mẫu mã, cho thấy chúng không có xuất xứ từ Đông bắc Myanmar như các viên ya ba đã trở nên vô cùng phổ cập tại Thái Lan.
Các xu hướng hiện tại và các vấn đề
Các xu hướng ATS hiện đang trở nên thống nhất hơn trong toàn khu vực với sự phát triển của ATS dạng viên và sự gia tăng của thị trường thuốc lắc. Các chỉ số về việc sử dụng ATS tiếp tục tăng, bất chấp xu hướng ổn định toàn cầu, với 136 triệu viên ATS bị thu giữ vào năm 2010. Methamphetamine tới nay vẫn là ma túy phổ biến nhất được phát hiện trong các đợt truy quét ATS của cảnh sát, ước tính có tới 20 tấn methamphetamine bị thu giữ tại Đông và Đông Nam Á vào năm 2010, chiến gần một nửa tổng số toàn cầu. Mặc dù thuốc lắc vẫn ít gặp hơn methamphetamine, sự tăng lên về mức độ phổ biến của ma túy này đã ảnh hưởng phần lớn các quốc gia ở mức độ nào đó. Vì ATS dạng viên có thể chứa nhiều loại ATS (thuốc lắc, methamphetamine), thường được dùng kết hợp với các ma túy tổng hợp khác (ví dụ như ketamine) nên sự phân chia giữa thuốc lắc và ATS ít rõ ràng hơn ở những nơi khác trên thế giới. Sự sẵn có của methamphetamine tinh thể không còn chỉ có ở Đông Á, việc buôn bán đã lan rộng ra tới khu vực Đông Nam Á. Đông Nam Á cũng đã trở thành thị trường điểm đến cho ATS sản xuất ở các nơi khác trên thế giới (ví dụ như ATS được sản xuất tại Trung Đông được buôn lậu vào Đông và Đông Nam Á và được cho là hướng vào thị trường nội địa). Mặc dù các chất dạng thuốc phiện vẫn chiếm lĩnh tình hình ma túy tại một số quốc gia, ATS rõ ràng đã ghi lại dấu ấn rõ rệt tại Đông và Đông Nam Á và hiện là ma túy được quan tâm chính tại rất nhiều nước.
Cũng như những nơi khác trên thế giới, hình thái sử dụng ATS dao động từ việc sử dụng thuốc lắc để giải trí tại các quán bar và câu lạc bộ đêm, tới các vấn đề từ sự phụ thuộc vào methamphetamine và các sự cố về hành vi tâm thần và bạo lực. Một hình thái sử dụng có lẽ thường thấy ở khu vực này nhiều hơn so với phần lớn các quốc gia phương Tây là việc sử dụng ATS dạng viên tại môi trường làm việc. Độ sẵn có của methamphetamine dạng viên (ví dụ như ya ba) làm cho ma túy này được dùng như thuốc tăng lực để giữ tỉnh táo cho người lao động, đặc biệt là trong nhóm tài xế đường dài. Mặc dù không có nhiều bằng chứng về việc tiêm chích ATS trong khu vực, hành vi hút ma túy (cả methamphetamine tinh thể và ATS dạng viên) đã gia tăng các tác hại liên quan tới ATS (ví dụ như loạn thần do methamphetamine) vượt ra ngoài những tác hại thấy được của việc sử dựng ATS dạng viên qua đường uống.
Khu vực này cũng bị ảnh hưởng bởi sự phát triển của việc sản xuất ATS. Vào những năm 1990 Methamphetamine chủ yếu bắt nguồn từ bang Shan và các khu vực xung quanh, trong khi đó ngày nay việc sản xuất đã dần lan ra nhiều khu vực hơn, và hiện nay đã bao gồm các cơ sở sản xuất quy mô công nghiệp được phát hiện tại Malaysia, Indonesia, Trung Quốc và Cam-pu-chia. Việc sản xuất thuốc lắc tại khu vực ngày càng trắng trợn, cũng như việc thu hoạch dầu safrole, một nguyên liệu dùng để sản xuất thuốc lắc, từ các khu rừng ở Cam-pu-chia (từ rễ của cây Huỳnh đàn). Tại rất nhiều quốc gia năng lực kiểm soát sản xuất lậu ma túy còn hạn chế và các tổ chức tội phạm đang lợi dụng lỗ hổng này. Điều này đặt các cộng đồng bản địa dễ bị tổn thương vào nguy cơ sản xuất và buôn bán ma túy, và khả năng có tỷ lệ sử dụng m túy cao, khi các thành viên của cộng đồng bản địa tham gia vào đường dây cung cấp.
![]() |
Một vụ bắt giữ ATS giấu trong thùng loa. Ảnh minh hoạ (nguồn internet) |
Việc sản xuất ATS tại khu vực cũng mang đến những hệ quả khác. Mức độ sử dụng ATS cao được ghi nhận dọc theo các tuyến đường buôn lậu ATS - ví dụ, trong những làng dọc theo khu vực biên giới của Cam-pu-chia. Điều kiện cơ sở vật chất thiếu thốn tại các khu vực này làm cho việc ứng phó với tình hình sử dụng ATS và các vấn đề liên quan đặc biệt khó khăn. Những người sống trong khu vực này cũng gặp phải một loạt các khó khăn làm gia tăng nguy cơ phụ thuộc ma túy, như nghèo đói, thiếu các cơ hội giáo dục và học nghề, và các tổn thương tâm lý (ví dụ như sang chấn) trong nhóm những người sống dọc theo vùng biên giới bị buộc phải di cư (Mannava et al. trong chương thảo luận về các yếu tố hoàn cảnh ảnh hưởng tới việc sử dụng ma túy). Tỷ lệ sử dụng ATS cao cũng được ghi nhận trong các nhóm dễ bị tổn thương (ví dụ như trẻ em đường phố, người lao động tình dục) tại các thành phố lớn ở Cam-pu-chia và Lào. Về cơ bản những nhóm dễ bị tổn thương, đặc biệt là tại các khu vực bị ảnh hưởng bởi việc buôn bán ma túy, có nguy cơ sử dụng ATS cao, và do đó các can thiệp để giảm việc sử dụng ATS và các tác hại liên quan nên tập trung vào đối tượng này.
Lây nhiễm HIV cũng theo bước các đường dây buôn bán ma túy xuyên suốt Châu Á. Vấn đề này đã được nhận thấy với những trường hợp tiêm chích heroin, và hiện cũng có các bằng chứng mới xuất hiện về việc tiêm chích ATS tại khu vực, hơn nữa, hành vi sử dụng ATS cũng tăng cường nguy cơ lây nghiễm HIV do nhu cầu tình dục tăng lên, hành vi tình dục không an toàn, và các bệnh lý hệ thống miễn dịch. Hiện năng lực đối phó với nguy cơ của việc sử dụng ATS là rất hạn chế do hiểu biết về việc sử dụng ATS và lây nhiễm HIV tại các khu vực dễ bị tổn thương nhất còn kém, và các chiến lược dự phòng HIV hiện có chủ yếu tập trung vào tiêm chích heroin hoặc các ma túy chất dạng thuốc phiện khác.
(Còn tiếp)
Bài 3: Ứng phó với việc sử dụng ATS tại Đông và Đông Nam Á