Nguyên nhân trẻ em rơi vào hoàn cảnh đặc biệt khó khăn
Ông Tô Đức, Phó Cục trưởng Cục Bảo trợ xã hội (Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội) cho biết, hiện nay, tình trạng trẻ em bị mất nguồn nuôi dưỡng, mồ côi, bị bỏ rơi do nghèo đói, do bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS, do bố mẹ ly dị, hay sinh con ngoài ý muốn ở các phụ nữ trẻ tiếp tục gia tăng, dẫn đến thiếu khả năng tiếp cận với một hệ thống phúc lợi xã hội có tính phòng ngừa hiệu quả.
![]() |
Trẻ bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS - trẻ hoàn cảnh đặc biệt khó khăn tại Trung tâm Giáo dục Lao động Xã hội số 2 - Ảnh: Thùy Chi |
Nhiều nguyên nhân gây lên tình trạng trẻ em đặc biệt
Theo số liệu thống kê, khoảng 1,5 triệu trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, bao gồm: trẻ nhiễm HIV/AIDS, trẻ em nghiện ma túy, trẻ em bị xâm hại tình dục, trẻ em mồ côi và trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em khuyết tật nặng, trẻ em là nạn nhân của chất độc hóa học, trẻ em lao động nặng nhọc, nguy hiểm, trẻ em vi phạm pháp luật, trẻ em làm việc xa gia đình, trẻ em lang thang, trẻ em lao động sớm...
Theo ông Tô Đức, có rất nhiều nguyên nhân gây nên tình trạng trẻ em đặc biệt khó khăn. Đối với những nhóm trẻ khác nhau thì có những nguyên nhân chung và nguyên nhân riêng đặc thù.
Có thể chia làm 2 nhóm nguyên nhân. Đó là, nhóm nguyên nhân khách quan và nhóm nguyên nhân chủ quan.
Cụ thể, nhóm nguyên nhân khách quan, bao gồm:
Nguyên nhân về kinh tế: Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, khó tránh khỏi sự phân hoá giàu nghèo, phân hoá xã hội. Gốc rễ của vấn đề này là qui luật cạnh tranh, một bộ phận dân cư giàu lên nhanh chóng và bộ phận dân cư khác không đủ sức cạnh tranh sẽ bị rơi vào tình trạng nghèo, nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối.
Bên cạnh đó, sự chênh lệch mức sống giữa các tầng lớp dân cư, giữa các vùng cũng làm gia tăng trẻ em lang thang kiếm sống, lao động trẻ em và trẻ em bị xâm hại tình dục...
Mặt khác, lối sống thực dụng chạy theo đồng tiền làm một số giá trị đạo đức xã hội bị đảo lộn: li dị, li thân, bỏ rơi con cái, mức độ quan tâm của cộng đồng, làng, xã đối với trẻ em ngày càng giảm sút. Trẻ em thường rất nhạy cảm với sự thay đổi của môi trường, do vậy tình trạng bỏ nhà ra đi, trộm cắp, bụi đời, nghiện hút ngày càng gia tăng ở lứa tuổi các em.
Cũng do kinh tế phát triển, mức sống dân cư tăng, chi phí cho các dịch vụ xã hội cơ bản như giáo dục, y tế, nước sạch... và các chi phí vui chơi giải trí cho trẻ ngày càng tăng.
Thêm vào đó, nghèo đói ngày càng gay gắt, bộ phận dân cư nghèo không đủ điều kiện để đáp ứng nhu cầu của trẻ, hiển nhiên những trẻ này có xu hướng bỏ học, đi làm, đi lang thang...
Nguyên nhân về điều kiện tự nhiên: Điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, thiên tai, bão lũ thường xuyên xảy ra, hàng năm gây thiệt hại lớn về người và tài sản của nhân dân dẫn đến cảnh đói nghèo, dịch bệnh, người chết, tàn tật, mất tích... Trong số đó, không ít trẻ em bị mồ côi, tàn tật, mắc bệnh, thiếu ăn, phải đi lang thang...
Ngoài ra, địa hình phức tạp, chia cắt các vùng, hạ tầng cơ sở cơ bản như y tế, giáo dục, nước sạch... là những nguyên nhân chung dẫn đến tình trạng khó khăn của người dân và trẻ em, khiến trẻ không được bảo đảm và trẻ rơi vào tình trạng trẻ em hoàn cảnh đặc biệt khó khăn…
Nguyên nhân về chiến tranh: Chiến tranh để lại hậu quả nặng nề, thương tật, bệnh tật, nhiều trẻ mất cha, mất mẹ trở thành mồ côi, không có người thân chăm sóc phải lao động sớm, lang thang kiếm sống và là những nguyên nhân chính gây nên trẻ em tàn tật bẩm sinh.
Hiện còn hàng vạn tấn bom đạn chưa nổ nằm rải rác trên một số đồng ruộng, cánh rừng, sông ngòi, ao hồ và các khu dân cư trên đất nước ta là nguyên nhân dẫn đến hàng nghìn trẻ em bị thương tật vĩnh viễn. Chất độc hoá học do Mỹ đã sử dụng ở Việt Nam cũng là một nguyên nhân quan trọng gây nên tàn tật, không những ảnh hưởng đối với những người trực tiếp sống trong thời kỳ chiến tranh mà còn ảnh hưởng đến các thế hệ gián tiếp và qua nhiều thế hệ.
Hậu quả chất độc hoá học trong chiến tranh còn kéo dài cho nhiều thế hệ và để lại gánh nặng cho xã hội mà đối tượng gánh chịu trực tiếp là số trẻ em tàn tật được sinh ra.
Đối với, nhóm nguyên nhân chủ quan: Do nhận thức về vấn đề trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn còn hạn chế, không chỉ riêng nhận thức của trẻ em, gia đình mà còn cả xã hội về vấn đề trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn còn nhiều hạn chế, chưa thấy được trách nhiệm tổ chức thực hiện và nguy hại đối với xã hội. Đặc biệt là mối quan hệ gắn liền vấn đề trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn với phát triển nguồn nhân lực cao trong tương lai.
Sự thiếu hụt về đầu tư của Nhà nước vào một số vùng, địa phương, sự thiếu quan tâm của các cấp, chính quyền, sự thiếu trách nhiệm của một số bậc cha mẹ trong việc chăm sóc, bảo vệ và giáo dục trẻ em, sự nhạy cảm của trẻ em với môi trường sống đang là những nguyên nhân làm cho tình trạng trẻ rơi vào hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ngày càng tăng.
Những nguyên nhân thuộc về gia đình: Những biến đổi nhanh chóng của sản xuất, đời sống, giao thông liên lạc, thông tin đại chúng... đang làm thay đổi những mối quan hệ của con người trong gia đình và xã hội. Hiện tượng li hôn, li thân, sinh con ngoài giá thú, bỏ rơi con... không còn là cá biệt mà đã trở thành phổ biến tăng lên nhiều lần trong những năm qua.
Bên cạnh đó, một số bậc cha mẹ khác do phải lo kinh tế thiếu sự chăm sóc, bỏ mặc con cái khi các em bỏ học hoặc đi lang thang, kiếm sống, bụi đời... Một số khác có xu hướng khuyến khích con cái bỏ học đi làm nhằm tăng thêm thu nhập cho gia đình và bớt gánh nặng về kinh tế. Số gia đình khác do quá nghèo hoặc bệnh tật, sức khoẻ yếu... không đủ điều kiện để chăm sóc hoặc cho con đi học...
Ngoài ra, một số gia đình bố mẹ quá khắt khe, cư xử thô bạo, hắt hủi con cái làm chúng sợ hãi, xa lánh... Chính sự thiếu hiểu biết, nhận thức hạn chế, thiếu trách nhiệm hoặc thiếu biện pháp quản lý trong việc chăm sóc con cái của một số bậc cha mẹ và gia đình là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng gia tăng trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn.
Tuy nhiên, cũng có những nguyên nhân thuộc về chính bản thân các em. Đây là những nguyên nhân chủ quan thuộc về chính bản thân các em, trong điều kiện môi trường sống khó khăn và nhiều cạm bẫy, ý thức vượt khó của trẻ giữ một vị trí đặc biệt quan trọng…
Ngoài ra, còn có nguyên nhân thuộc về cơ chế chính sách và sự quản lý của nhà nước. Theo ông Tô Đức, do nhà nước thiếu một hệ thống chính sách đồng bộ về đầu tư, giáo dục, y tế, chính sách xã hội. Sự thiếu hụt chính sách xã hội đi cùng với việc đầu tư không đồng bộ dẫn đến sự chênh lệch mức sống giữa các vùng, các địa phương, làm gia tăng số trẻ em lang thang từ nông thôn ra thành thị. Sự thiếu biện pháp mạnh trong công tác quản lý cộng đồng dân cư làm gia tăng tệ nạn xã hội, kéo theo trẻ em nghiện ma tuý, lao động trẻ em, trẻ em lang thang, trẻ em làm trái pháp luật ngày một tăng.
Bên cạnh đó, chủ trương phân cấp quản lý nhà nước chưa được làm triệt để, một số địa phương khó khăn, nghèo có tư tưởng trông chờ vào sự trợ cấp của nhà nước, dẫn đến nhiều chính sách và giải pháp chưa được tổ chức thực hiện và cũng không phải chịu trách nhiệm.
Trong vấn đề chăm sóc và bảo vệ trẻ em bị một tình trạng chung, hay nói cách khác là hiệu lực pháp luật chưa cao. Ngoài ra, ở một số địa phương, cơ sở thiếu sự quan tâm chỉ đạo hoặc quan tâm chưa đúng mức cũng là nguyên nhân dẫn đến tình trạng gia tăng trẻ em hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp thiếu ở hầu hết các địa phương, nhất là ở miền núi và nông thôn, vùng có khó khăn về kinh tế.
Ngoài ra, trẻ em rơi vào tình trạng hoàn cảnh đặc biệt khó khăn còn do một số nguyên nhân khác như khuyết tật bẩm sinh, bệnh tật của bố, mẹ di truyền, dịch bệnh, lạm dụng thuốc chữa bệnh, hoá chất bảo vệ lương thực và thực phẩm, tai nạn giao thông...
Xu hướng trợ giúp xã hội
Việt Nam rất quan tâm tới công tác bảo vệ, chăm sóc, giáo dục và trợ giúp trẻ em, chính vì vậy, Việt Nam là quốc gia đầu tiên ở Châu Á và quốc gia thứ 2 trên thế giới phê chuẩn Công ước về quyền trẻ em của Liên Hợp Quốc.
Trong những năm qua, Việt Nam đã từng bước xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về trợ giúp xã hội đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn nhằm bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất, kịp thời điều chỉnh mọi quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực trợ giúp.
Đồng thời, từng bước tham gia, phê chuẩn, thực hiện các cam kết quốc tế và xây dựng pháp luật về trợ giúp xã hội đối với trẻ em hoàn cảnh đặc biệt khó khăn hài hòa, phù hợp với xu thế hội nhập khu vực, quốc tế. Đó là những cơ sở pháp lý hết sức quan trọng, vững chắc cho việc trợ giúp xã hội đối với trẻ em hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, bảo đảm cho các em có cơ hội phát triển toàn diện về thể chất, tinh thần và trí tuệ, là chủ nhân tương lai của đất nước.
Tuy nhiên, pháp luật về trợ giúp xã hội đối với trẻ em hoàn cảnh đặc biệt khó khăn hiện nay cũng bộc lộ nhiều vấn đề cần phải nghiên cứu, làm rõ cả về phương diện lý luận và thực tiễn triển khai, cụ thể: Có rất ít các công trình nghiên cứu khoa học pháp luật về trợ giúp xã hội đối với trẻ em hoàn cảnh đặc biệt khó khăn; Chưa có những nghiên cứu, rà soát, phân tích, đánh giá tổng thể, toàn diện thực trạng pháp luật về trợ giúp xã hội đối với trẻ em hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, trong khi chính sách pháp luật về trợ giúp xã hội đối với trẻ em có HCĐB đã bộc lộ nhiều điểm bất cập, lạc hậu, không còn phù hợp với thực tế cuộc sống, tính ổn định, tính khả thi thấp, nhiều nội dung phát sinh trong quan hệ trợ giúp xã hội đối với trẻ em chưa được điều chỉnh; Thiếu các mô hình lý luận và giải pháp hoàn thiện pháp luật về trợ giúp xã hội đối với trẻ em có HCĐB một cách hiệu quả, bền vững.
Theo ông Tô Đức, trong xu hướng hội nhập quốc tế, Việt Nam cần đổi mới pháp luật về trợ giúp xã hội đối với trẻ em hoàn cảnh đặc biệt khó khăn theo hướng chú trọng, thúc đẩy hoạt động phòng ngừa, phát hiện sớm, can thiệp sớm, trợ giúp đối tượng sinh sống tại gia đình, cộng đồng.