Quyền nuôi con nuôi của LGBT tại Việt Nam: Thực trạng và khuyến nghị
Tại Việt Nam, người đồng tính, song tính và chuyển giới (LGBT) còn gặp nhiều kỳ thị và phân biệt đối xử. Tuy nhiên, xã hội và các cơ quan nhà nước đã có nhiều chuyển biến tích cực về nhận thức liên quan tới đa dạng giới và tình dục. Sự đa dạng giới và tính dục đã được đề cập nhiều hơn trong xã hội, trên các phương tiện thông tin đại chúng và tại các kỳ họp Quốc hội.
Vấn đề nuôi con nuôi của các cặp đôi cùng giới tính đã có nhiều công trình nghiên cứu trên thế giới nhưng hiện hầu như “vắng mặt” tại Việt Nam. Mới đây, Chương trình phát triển của Liên Hợp Quốc (UNDP) và Cơ quan phát triển quốc tế của Mỹ (USAIDS) đã tiến hành nghiên cứu về vấn đề này tại Việt Nam nhằm làm rõ những khoảng trống và những điểm chưa đồng nhất trong hệ thống pháp luật Việt Nam liên quan đến đa dạng giới và tính dục, và quyền của trẻ em trong lĩnh vực nuôi con nuôi từ phương diện bảo vệ quyền.
![]() |
Ảnh minh họa |
Đồng thời tìm hiểu nhu cầu thực tế của người đồng tính, song tính, hoặc chuyển giới tại Việt Nam đối với việc nuôi con nuôi và các vấn đề liên quan; tìm hiểu rõ quan điểm và thái độ của cộng đồng đối với việc ghi nhận quyền nuôi con nuôi của các cặp đôi cùng giới tính. Thông qua đó, xác định các hoạt động cần thiết, hướng tới việc dỡ bỏ các rào cản pháp lý và thủ tục hành chính, bao gồm cả việc sửa Luật nuôi con nuôi và các văn bản pháp luật có liên quan, nhằm ghi nhận và bảo vệ quyền nuôi con nuôi của các cặp đôi cùng giới tính.
Với cách tiếp cận dựa trên quyền, nghiên cứu về Quyền nuôi con nuôi của người đồng tính, song tính và chuyển giới tại Việt Nam so sánh các quy định của các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia cũng như các quy định của pháp luật Việt Nam về đa dạng giới và tính dục và quyền của trẻ em. Nghiên cứu tập trung vào lĩnh vực nuôi con nuôi nhằm làm rõ những vướng mắc đang tồn tại trong hệ thống pháp luật và thực thi pháp luật ở Việt Nam. Rõ ràng là quyền bình đẳng và không bị phân biệt đối xử là những nguyên tắc nền tảng của Luật Nhân quyền quốc tế.
Theo đó, người đồng tính, song tính và chuyển giới có đầy đủ các quyền con người như những cá nhân khác trong mọi lĩnh vực của đời sống, trong đó có các quyền như quyền kết hôn, quyền lập gia đình, quyền nuôi con, quyền nhận con nuôi. Đồng thời, Luật Nhân quyền quốc tế đề cao nguyên tắc về quyền trẻ em, “không phân biệt đối xử” và “vì lợi ích tốt nhất của trẻ em”. Trẻ em cần được bảo vệ và không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào, dù là trẻ em đồng tính hay trẻ em dị tính, trẻ em chuyển giới hay không chuyển giới, trẻ em sống trong gia đình có một cha và một mẹ hay trẻ em sống trong gia đình có hai cha hoặc hai mẹ.
Những nguyên tắc này đã được thể hiện trong Hiến pháp và pháp luật Việt Nam, tuy nhiên kết quả nghiên cứu cho thấy một số quy định pháp luật còn mang tính chủ quan và chưa thực sự rõ ràng. Điều này đã gây nên những khó khăn trong việc thực thi pháp luật và dẫn đến quyền nuôi con nuôi của các cá nhân là người đồng tính, song tính và chuyển giới chưa được đảm bảo.
Trên thực tế người đồng tính, song tính và chuyển giới có mong muốn, nuôi con và nhận nuôi con như những cá nhân khác.
Tuy nhiên, chỉ có 0,9% LGBT ở Việt Nam tham gia khảo sát trả lời rằng đã và đang làm các thủ tục nhận con nuôi, 21,3% LGBT đã tìm hiểu về thủ tục nhận con nuôi.
Do nhiều điều kiện, thách thức từ nhận thức hiện nay của xã hội nên việc thực hiện mong muốn này còn gặp nhiều khó khăn. Sự thừa nhận của pháp luật, sự ủng hộ của chính quyền địa phương, sự ủng hộ của gia đình, thái độ của cộng đồng và xã hội, sự ủng hộ của bạn đời và người yêu, và tâm lý của chính người đồng tính, song tính và chuyển giới có tác động rất quan trọng tới việc họ nhận nuôi con nuôi.
Hiện tại, pháp luật Việt Nam không đề cập tới xu hướng tính dục hoặc bản dạng giới của người nhận nuôi con nuôi hoặc của người giám hộ, người đại diện. Trong tương lai, cần thể hiện trong luật và các hướng dẫn về thủ tục hành chính nguyên tắc tôn trọng và chống phân biệt đối xử dựa trên xu hướng tính dục và bản dạng giới, đồng thời đề cao các quyền cơ bản của con người, phù hợp với định hướng xây dựng một xã hội công bằng, tự do, bắc ái và ngày càng dân chủ hơn. Khi nhà nước đã quy định và bảo vệ, thái độ của công chúng đối với sự đa dạng giới và tính dục sẽ cởi mở hơn; người đồng tính, song tính và chuyển giới sẽ có điều kiện tốt hơn trong đời sống.
Việt Nam đang tiến hành rà soát các quy định pháp luật để sửa đổi bổ sung và hoàn thiện cho phù hợp với Hiến pháp sửa đổi năm 2013. Dù đặc điểm văn hóa, pháp luật của mỗi quốc gia có thể có những đặc thù, khác biệt nhưng cần hướng tới việc tuân thủ các chuẩn mực nhân quyền và pháp luật quốc tế.
Việc pháp luật và các cơ quan thực thi pháp luật ghi nhận, bảo vệ và tạo điều kiện thực thi quyền nuôi con nuôi của người đồng tính, song tính và chuyển giới, quyền của trẻ em không phân biệt khuôn mẫu gia đình hay cha, mẹ sẽ làm một bước tiến tích cực trong tiến trình thực hiện hóa các nguyên tắc và quy định mới về nhân quyền và quyền công dân trong Hiến pháp vào đời sống.
Theo Nghiên cứu quốc gia các Gia đình đồng tính nữ tại Hoa Kỳ (The U.S. National Longitudinal Lesbian Family Study - NLLFS) trong 24 năm: 100% trẻ được nuôi dưỡng trong gia đình có bố mẹ là đồng tính nữ không bị lạm dụng thể chất hay tình dục. Tỷ lệ bị lạm dụng thẩ chất và tình dục của trẻ có bố mẹ hoặc người chăm sóc dị tính nói chung lần lượt là 26% và 8,3% . Ngoài ra, nghiên cứu cho thấy, có 2,8% trường hợp trong số đó công khai là đồng tính (khá tương đồng với tỉ lệ 5-10% dân số là đồng tính, song tính, chuyển giới (LGBT). Kết quả nghiên cứu đã phản bác lại những quan điểm cho rằng các cặp đôi đồng tính không thể nuôi dạy con tốt và ảnh hưởng đến đứa trẻ. Nó cũng phá vỡ những định kiến được duy trì bởi những quan điểm bài xích cộng đồng LGBT. |