Hành động quyết liệt vì tương lai của mục tiêu chấm dứt dịch AIDS

01/12/2025 16:34

(Chinhphu.vn) - Trong bối cảnh thế giới chỉ còn 5 năm để tiến tới mốc chấm dứt AIDS vào năm 2030, những cảnh báo từ UNAIDS cho thấy cuộc chiến chống HIV vẫn còn nhiều thách thức. Dù đã đạt những tiến bộ đáng kể, dịch HIV vẫn diễn biến phức tạp và có nguy cơ đảo ngược nếu không có giải pháp mạnh mẽ và bền vững.

Chia sẻ nhân Tháng Hành động quốc gia phòng, chống HIV/AIDS tại Việt Nam và Ngày Thế giới phòng, chống AIDS (1/12), ông Raman Hailevich – Giám đốc quốc gia Chương trình Phối hợp phòng, chống HIV/AIDS của Liên Hợp Quốc (UNAIDS) tại Việt Nam – đã có những đánh giá toàn diện về tình hình toàn cầu cũng như những bước đi chiến lược của Việt Nam.

Tình hình dịch HIV/AIDS vẫn tiềm ẩn nhiều nguy cơ

Chia sẻ về bức tranh toàn cầu về HIV/AIDS, ông Raman Hailevich cho biết, hiện tình hình dịch HIV/AIDS vẫn tiềm ẩn nhiều nguy cơ. Năm 2024, thế giới ghi nhận 1,3 triệu ca nhiễm HIV mới – con số cao hơn nhiều so với mục tiêu đặt ra dù đã giảm 40% so với năm 2010. Cùng năm, 630.000 người tử vong do các nguyên nhân liên quan đến AIDS. Điều này cho thấy khoảng trống lớn trong dự phòng, phát hiện sớm và khả năng tiếp cận điều trị của nhiều quốc gia.

Hành động quyết liệt vì tương lai của mục tiêu chấm dứt dịch AIDS- Ảnh 1.

Ông Raman Hailevich – Giám đốc quốc gia Chương trình Phối hợp phòng, chống HIV/AIDS của Liên Hợp Quốc (UNAIDS) tại Việt Nam. Ảnh: VGP/Thùy Chi

Tuy nhiên, điểm sáng đáng chú ý là 77% trong tổng số 40,8 triệu người sống với HIV trên toàn cầu đã được điều trị ARV, và 73% đạt tải lượng virus được ức chế. Đây là một bước tiến quan trọng trong y học hiện đại. "Dẫu vậy, tiến độ này vẫn chưa đủ nhanh để thế giới đạt mục tiêu vào năm 2030," ông Raman nhấn mạnh.

Theo ông, thách thức lớn nhất hiện nay chính là sự sụt giảm nghiêm trọng trong tài trợ quốc tế, vốn từng đóng vai trò quan trọng trong mở rộng dự phòng, xét nghiệm và điều trị tại nhiều nước thu nhập trung bình, trong đó có Việt Nam.

Việt Nam – điểm sáng trong kiểm soát HIV/AIDS

Giữa bức tranh nhiều gam màu xám của thế giới, Việt Nam tiếp tục được đánh giá là điểm sáng với nhiều kết quả vượt trội. Ông Raman Hailevich cho biết, theo Báo cáo đánh giá giữa kỳ Chiến lược Quốc gia chấm dứt dịch AIDS vào năm 2030 do UNAIDS và Tổ chức Y tế thế giới (WHO) phối hợp thực hiện năm 2024, Việt Nam đã: Ngăn chặn hơn 1,2 triệu ca nhiễm HIV mới (2004–2024); Phòng tránh gần 320.000 ca tử vong liên quan đến AIDS; Mỗi 1 USD đầu tư cho HIV mang lại 24 USD giá trị kinh tế, khẳng định dự phòng là giải pháp tối ưu và bền vững.

Bên cạnh đó, Việt Nam cũng ghi nhận giảm gần 60% số ca nhiễm HIV mới và giảm 57% số ca tử vong liên quan đến AIDS kể từ giai đoạn đỉnh dịch. Đến cuối năm 2024, 82% số người được chẩn đoán HIV đã được điều trị, và gần 75.000 người nguy cơ cao đã tiếp cận được dịch vụ PrEP – một trong những biện pháp dự phòng hiệu quả nhất hiện nay.

"Những thành quả này không đến tự nhiên," ông Raman nhấn mạnh. "Đó là kết quả của một hành trình bền bỉ 35 năm, nơi Việt Nam luôn kiên định đặt con người vào trung tâm, giảm kỳ thị, mở rộng các mô hình dự phòng, xét nghiệm, điều trị toàn diện và dựa trên bằng chứng khoa học".

Những thách thức mang tính "bản lề" Việt Nam đang phải đối mặt

Theo ông Raman Hailevich, dù đạt nhiều kết quả nổi bật, Việt Nam vẫn đối mặt những thách thức mang tính "bản lề", đặc biệt là về tài chính, độ bao phủ dịch vụ, và năng lực hệ thống y tế.

Ông Raman Hailevich cho rằng, hiện độ bao phủ PrEP và các dịch vụ dự phòng vẫn còn thấp. Bởi theo Chiến lược quốc gia, Việt Nam đặt mục tiêu đạt 25% bao phủ PrEP vào năm 2025 và 40% vào năm 2030. Nhưng UNAIDS cho rằng, để kết thúc AIDS vào năm 2030, cần gần 70% bao phủ. Hiện Việt Nam mới đạt khoảng 20%.

Thách thức cần lưu ý hiện nay đó là khoảng trống tài chính sau khi viện trợ quốc tế giảm. Trong giai đoạn 2021–2024, PEPFAR, Quỹ Toàn cầu, Liên Hợp Quốc và các đối tác đã đầu tư 208,5 triệu USD cho Việt Nam. Tuy nhiên, đây có thể là một trong những giai đoạn tài trợ lớn cuối cùng.

Đối với các dịch vụ như tìm kiếm ca bệnh, PrEP, ARV bậc hai, chương trình dự phòng cộng đồng vẫn phụ thuộc lớn vào nguồn hỗ trợ quốc tế. Nếu nguồn lực này biến mất mà không có ngân sách trong nước thay thế, Việt Nam có thể chứng kiến sự bùng phát ca nhiễm tương tự giai đoạn 2010, làm mất đi nỗ lực hơn một thập kỷ qua.

Ngoài ra, việc sắp xếp lại hệ thống y tế khiến số lượng cán bộ chuyên trách HIV giảm, ảnh hưởng đến năng lực triển khai dịch vụ tại cơ sở. Cùng với phân cấp mạnh mẽ, từ năm 2026, các tỉnh sẽ phải tự tổ chức mua sắm và quản lý thuốc ARV – một thách thức không nhỏ đối với nhiều địa phương.

Chính sách mới tạo nền tảng cho tính bền vững

Dù đứng trước nhiều thách thức, Việt Nam vẫn có "nền tảng cực kỳ vững chắc" để hướng tới mục tiêu 2030. Ông Raman đánh giá cao một loạt chính sách quan trọng đã được ban hành. Điển hình là Nghị quyết 72-NQ/TW của Bộ Chính trị về một số giải pháp đột phá, tăng cường bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân mới được ban hành vào tháng 9/2025.

Lần đầu tiên mở đường cho Quỹ Bảo hiểm y tế chi trả một số dịch vụ dự phòng, bao gồm cả phòng ngừa HIV, bước ngoặt lớn về tài chính bền vững.

Tiếp theo là Chương trình Mục tiêu quốc gia về sức khỏe, dân số và phát triển (2026–2035). Chính thức đưa HIV vào chương trình nghị sự y tế quốc gia, quy định rõ trách nhiệm ngân sách Trung ương, địa phương.

Luật Phòng bệnh (dự thảo) mới đấy cũng là một bước tiến lớn. Theo đó, dự kiến sẽ thành lập Quỹ Phòng bệnh, một cơ chế tài chính mới để huy động thêm nguồn lực ngoài ngân sách và ngoài hệ thống bảo hiểm y tế.

Tại Việt Nam, hiện có khoảng 96% người nhiễm HIV đã tham gia bảo hiểm y tế. Khoảng 90% bệnh nhân đang điều trị ARV được thanh toán qua bảo hiểm y tế. Đây là một thành tựu hiếm đối với quốc gia thu nhập trung bình đạt được.

Những chính sách này, theo ông Raman đã "chứng minh cam kết chính trị mạnh mẽ và tầm nhìn dài hạn của Chính phủ Việt Nam".

Ứng phó với nhóm nguy cơ mới và thay đổi hình thái dịch

Trong mấy năm gần đây, hình thái lây nhiễm HIV tại Việt Nam thay đổi nhanh, đặc biệt là gia tăng ca nhiễm mới trong nhóm nam quan hệ tình dục đồng giới (MSM) trẻ tuổi. Điều này đòi hỏi chiến lược dự phòng phải thích ứng: thân thiện hơn, bảo mật hơn và phù hợp với hành vi của thanh thiếu niên.

Việt Nam đã triển khai nhiều mô hình hiệu quả như xét nghiệm cộng đồng, dịch vụ trực tuyến, tích hợp xét nghiệm – PrEP, và các điểm dịch vụ thân thiện với thanh niên. Tuy nhiên, theo ông Raman, cần tiếp tục trao quyền cho nhóm đồng đẳng và doanh nghiệp xã hội, vì họ hiểu rõ nhất cách tiếp cận nhóm nguy cơ cao.

Bên cạnh đó, cần phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền để giảm phân biệt đối xử, kỳ thị liên quan đến HIV và kỳ thị giới, giúp nhóm đối tượng trẻ tuổi, nguy cơ cao thấy an toàn khi tiếp cận dịch vụ. Đồng thời, tăng cường "văn hóa dữ liệu", bảo đảm mọi quyết định dựa trên bằng chứng.

Đầu tư bền vững để giữ vững thành quả phòng, chống HIV/AIDS

Trả lời về kế hoạch sắp tới trong công tác phòng, chống HIV/AIDS tại Việt Nam, ông Raman khẳng định UNAIDS sẽ tiếp tục là đối tác chiến lược đồng hành lâu dài cùng Việt Nam. Hỗ trợ của UNAIDS tập trung vào: Huy động và sử dụng hiệu quả nguồn lực tài chính trong nước, hướng tới tự chủ bền vững; Hỗ trợ tài chính cho các tổ chức cộng đồng (CBO) – lực lượng được ông Raman gọi là "xương sống của dự phòng HIV"; Củng cố trạm y tế xã, bảo đảm là tuyến đầu cung cấp xét nghiệm, điều trị và duy trì tuân thủ; Tư vấn chính sách, kế hoạch bền vững, xây dựng năng lực địa phương; Hỗ trợ triển khai Đề án quốc gia về phòng, chống HIV/AIDS đến năm 2030 theo hướng không để dịch tái bùng phát sau 2030.

"Việt Nam đang tiến rất gần mục tiêu chấm dứt AIDS vào năm 2030, nhưng để giữ vững thành quả, đầu tư bền vững là yếu tố quyết định", ông Raman Hailevich nhấn mạnh.

Nhìn lại chặng đường 35 năm, Việt Nam đã lập nên nhiều dấu mốc đáng tự hào trong kiểm soát HIV/AIDS. Tuy nhiên, thách thức về nguồn lực, nhân lực và sự thay đổi của hình thái dịch đòi hỏi các hành động quyết liệt hơn trong giai đoạn tới.

Như ông Raman Hailevich khẳng định, Việt Nam không bắt đầu từ con số 0. Việt Nam có hệ thống pháp lý, chính sách tài chính đang hoàn thiện, có sự lãnh đạo chính trị mạnh mẽ và có sự chung tay của cộng đồng. Và quan trọng hơn cả, Việt Nam có một mục tiêu rõ ràng, đó là quyết tâm không để AIDS còn là mối đe dọa sức khỏe cộng đồng sau năm 2030.

Thùy Chi

hiv
}
Top