Khắc phục tình trạng xét nghiệm, điều trị dự phòng muộn ở phụ nữ mang thai nhiễm HIV

26/06/2025 15:32

(Chinhphu.vn) - Trong hành trình hướng tới mục tiêu loại trừ lây truyền HIV từ mẹ sang con vào năm 2030, Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả tích cực. Tuy nhiên, vẫn tồn tại một “nút thắt” đáng lo ngại cần phải tháo gỡ. Đặc biệt tại các khu vực vùng sâu, vùng xa.

Cụ thể là không ít phụ nữ mang thai chỉ được phát hiện nhiễm HIV khi thai kỳ đã muộn, thậm chí đến thời điểm chuyển dạ. Việc phát hiện trễ kéo theo điều trị ARV chậm trễ, làm giảm hiệu quả dự phòng, gia tăng nguy cơ lây truyền HIV sang con.

Hệ quả nghiêm trọng của việc phát hiện và điều trị muộn

Trên thực tế, tình trạng phụ nữ mang thai được phát hiện HIV khi thai đã lớn không còn hiếm. Tại Thanh Hóa, theo thống kê năm 2024, toàn tỉnh xét nghiệm HIV cho gần 36.000 phụ nữ mang thai và phát hiện 7 ca dương tính. Trong số đó, có đến 5 người được phát hiện khi thai đã trên 30 tuần – thời điểm hiệu quả điều trị ARV giảm rõ rệt nếu không can thiệp sớm.

Khắc phục tình trạng xét nghiệm, điều trị dự phòng muộn ở phụ nữ mang thai nhiễm HIV- Ảnh 1.

Xét nghiệm HIV cho phụ nữ trong độ tuổi mang thai. Ảnh: VGP/Thùy Chi

Không chỉ ở Thanh Hóa, một số địa phương khác như An Giang, TPHCM hay Bắc Giang cũng ghi nhận các trường hợp phát hiện HIV muộn. Đáng lo ngại hơn, một số người chỉ được xét nghiệm khi đang chuyển dạ khiến toàn bộ quy trình can thiệp dự phòng không thể triển khai đầy đủ.

Việc xét nghiệm và điều trị ARV muộn để lại nhiều hệ quả. Trước hết là nguy cơ lây truyền HIV từ mẹ sang con tăng cao. Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), nguy cơ này có thể lên đến 45% nếu không có bất kỳ can thiệp nào. Trong khi đó, nếu được điều trị đúng thời điểm và đầy đủ, nguy cơ lây truyền có thể giảm xuống dưới 2%.

Ngoài ra, điều trị muộn khiến hệ thống y tế phải xử lý trong tình huống gấp gáp. Các biện pháp như bắt đầu ARV khẩn cấp, xét nghiệm PCR sớm cho trẻ, chuẩn bị dinh dưỡng, tư vấn tâm lý… đều gặp áp lực lớn. Đồng thời, người mẹ cũng dễ rơi vào trạng thái hoảng loạn, ảnh hưởng đến tuân thủ điều trị.

Thực trạng nêu trên bắt nguồn từ một số nguyên nhân sâu xa. Trước tiên, không ít phụ nữ, nhất là ở vùng sâu, vùng xa còn thiếu kiến thức về HIV, chưa hiểu rõ lợi ích của xét nghiệm sớm và điều trị dự phòng. Sự kỳ thị vẫn tồn tại trong cộng đồng cũng khiến nhiều người e ngại tiếp cận dịch vụ.

Bên cạnh đó, không ít trường hợp phụ nữ mang thai phát hiện nhiễm HIV nhưng lại giấu thông tin, thậm chí không đến khám thai vì sợ bị kỳ thị hoặc bị gia đình, xã hội xa lánh. Điều này làm chậm trễ cả quá trình xét nghiệm và điều trị, khiến nguy cơ lây sang con tăng cao.

Ngoài ra, do thói quen và hành vi chăm sóc thai kỳ chưa đều đặn. Theo khảo sát từ các Trung tâm Y tế dự phòng địa phương, có đến 20%–30% phụ nữ mang thai ở vùng sâu, vùng xa chỉ đi khám thai một lần hoặc đến trạm y tế khi thai đã lớn. Việc bỏ lỡ giai đoạn "vàng" – từ quý I đến giữa quý II thai kỳ – khiến xét nghiệm HIV không được thực hiện đúng thời điểm, dẫn đến điều trị dự phòng không đạt hiệu quả tối ưu.

Một bộ phận công nhân, phụ nữ nhập cư ở đô thị cũng gặp tình trạng tương tự vì thiếu thời gian, khó khăn tài chính hoặc chưa đăng ký bảo hiểm y tế, dẫn đến ngại đến bệnh viện khám thai định kỳ.

Một trong những nguyên nhân nữa là do những rào cản trong hệ thống y tế cơ sở. Tại một số địa phương, đặc biệt ở vùng sâu vùng xa, các trạm y tế xã chưa đủ năng lực triển khai xét nghiệm HIV nhanh, tư vấn tâm lý hoặc theo dõi điều trị ARV cho phụ nữ mang thai. Nguyên nhân gồm: Thiếu nhân lực chuyên trách về HIV/AIDS; Thiếu sinh phẩm, vật tư y tế phục vụ xét nghiệm; Chưa tích hợp hoàn chỉnh dịch vụ xét nghiệm HIV vào quy trình khám thai ban đầu; Thiếu kết nối thông tin giữa các tuyến gây chậm trễ trong chuyển tuyến hoặc cung cấp thuốc…

Xét nghiệm sớm không chỉ bảo vệ mẹ mà còn là "lá chắn" đầu tiên cho con

Chị N.H. T. (22 tuổi ở Thanh Hóa) cho biết, chị phát hiện nhiễm HIV khi mang thai tuần thứ 4. Do thiếu kiến thức nên chị đã không thăm khám sớm. Chị T. đã rất lo lắng, nhưng nhờ bác sĩ hỗ trợ điều trị ARV và hướng dẫn kỹ, chị T. đã sinh con cuối năm 2024, hiện bé hoàn toàn khỏe mạnh và âm tính xét nghiệm lần đầu.

Trong khi đó, chị M.T.G (28 tuổi ở Bắc Giang) cho biết, chị nhiễm HIV và điều trị ARV đã 6 năm nay. Chị G. đã từng nghĩ sẽ không bao giờ sinh con được nữa, nhưng bác sĩ tư vấn chị vẫn có thể sinh con khỏe mạnh nếu chị tuân thủ điều trị ARV và cho bé uống thuốc dự phòng đầy đủ. Chị G. đã thực hiện theo đúng hướng dẫn, giờ con chị được gần 2 tuổi, khỏe mạnh, xét nghiệm PCR âm tính 2 lần.

TS.BS Nguyễn Văn Lâm, Giám đốc Trung tâm Bệnh nhiệt đới, Bệnh viện Nhi Trung ương cho biết, nhiều ca trẻ sinh ra từ mẹ nhiễm HIV nhưng hoàn toàn khỏe mạnh nhờ phát hiện sớm và điều trị đầy đủ. Ngược lại, chỉ cần trễ 1–2 tuần trong phát hiện HIV ở mẹ, đặc biệt trong 3 tháng cuối thai kỳ, là nguy cơ lây truyền có thể tăng gấp đôi hoặc gấp ba. Vì vậy, phụ nữ cần xét nghiệm HIV ngay trong quý đầu thai kỳ, thậm chí nên tầm soát trước khi có ý định mang thai.

Theo TS. Lâm, nhiều người vẫn ngại làm xét nghiệm HIV vì sợ bị đánh giá hoặc kỳ thị. Ông cho rằng đây là thách thức văn hóa cần được giải quyết bằng truyền thông tích cực và nâng cao nhận thức cộng đồng. Theo TS. Lâm, HIV giờ đây là bệnh mạn tính có thể điều trị kiểm soát như tăng huyết áp hay tiểu đường. Điều đáng sợ không phải là HIV, mà là sự kỳ thị và chậm trễ trong tiếp cận điều trị.

Đại diện Dự án PATH Việt Nam cho biết, một điều dễ nhận thấy là phụ nữ mang thai ở vùng nông thôn, miền núi thường có tỉ lệ xét nghiệm HIV thấp hơn thành thị. Nguyên nhân chủ yếu là vì họ ngại tiếp xúc với y tế, không quen đi khám định kỳ, hoặc không có thói quen tư vấn sức khỏe sinh sản. Vì thế, hệ thống y tế cần 'đi đến tận nơi', xây dựng mô hình xét nghiệm thân thiện, lưu động, kết hợp truyền thông cộng đồng. Để giải quyết vấn đề này, chương trình cần mở rộng mô hình "đồng đẳng viên" tư vấn để phá bỏ rào cản tâm lý cho người bệnh.

Tình trạng xét nghiệm HIV muộn và điều trị ARV trễ trong thai kỳ là một vấn đề còn tồn tại ở một số khu vực, đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa làm ảnh hưởng đến hiệu quả của chương trình loại trừ lây truyền HIV từ mẹ sang con. Tuy nhiên, đây không phải là vấn đề không thể giải quyết.

Trước hết, xét nghiệm HIV cho phụ nữ mang thai cần được xem là một xét nghiệm thường quy – giống như đo huyết áp hay siêu âm thai – chứ không phải là điều gì "khác biệt". Điều này đòi hỏi phải thay đổi nhận thức từ cả phía người dân lẫn nhân viên y tế. Xét nghiệm sớm không chỉ bảo vệ mẹ mà còn là "lá chắn" đầu tiên cho con.

Bên cạnh đó, điều trị ARV không nên bị trì hoãn vì bất kỳ lý do gì. Các nghiên cứu lâm sàng, cũng như kinh nghiệm thực tế tại Việt Nam, đều chứng minh rằng nếu người mẹ bắt đầu điều trị ARV đủ sớm (tốt nhất từ trước thai kỳ hoặc trong quý đầu), thì nguy cơ lây sang con gần như bằng 0.

Ngoài ra, mô hình "điều trị thân thiện" tại tuyến xã, kết hợp với truyền thông cộng đồng, hỗ trợ từ đồng đẳng viên, tư vấn cộng đồng và chiến dịch Tháng cao điểm dự phòng hằng năm cần được mở rộng trên toàn quốc. Đây không chỉ là một chiến lược y tế mà còn là hành động nhân đạo, thể hiện trách nhiệm của cả cộng đồng trong việc bảo vệ thế hệ tương lai.

Thùy Chi

hiv
}
Top