Những ‘vùng sáng’ trong dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con

03/06/2025 08:54

(Chinhphu.vn) - Thông qua việc mở rộng xét nghiệm sớm, điều trị ARV kịp thời và tư vấn toàn diện cho thai phụ, ngày càng nhiều em bé chào đời khỏe mạnh, không mang HIV. Những chuyển biến tích cực trong chương trình mở ra hy vọng hiện thực hóa mục tiêu loại trừ lây truyền HIV từ mẹ sang con vào năm 2030.

Triển khai đồng bộ các biện pháp như xét nghiệm sớm, điều trị ARV

Lây truyền HIV từ mẹ sang con là một trong ba con đường chính làm lây nhiễm HIV/AIDS, với nguy cơ lây từ mẹ sang con là 25% - 40%. Tuy nhiên, nếu được can thiệp kịp thời và toàn diện, tỉ lệ lây truyền HIV từ mẹ sang con có thể giảm xuống dưới 5%, thậm chí dưới 2%.

Những ‘vùng sáng’ trong dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con - Ảnh 1.

Thăm khám sức khỏe cho bệnh nhân mang thai nhiễm HIV. Ảnh: VGP/Thùy Chi

Chương trình dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con được triển khai tại Việt Nam từ năm 2009, với mục tiêu giảm tỉ lệ này xuống mức thấp nhất và hướng tới loại trừ hoàn toàn vào năm 2030.

Theo số liệu mới nhất từ Bộ Y tế, tỉ lệ lây truyền HIV từ mẹ sang con tại Việt Nam đã giảm từ 1,2% vào năm 2021 xuống còn 1% vào năm 2024. Đây là kết quả của việc triển khai đồng bộ các biện pháp như xét nghiệm sớm, điều trị ARV kịp thời và tư vấn toàn diện cho thai phụ.

Chương trình dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con tại Việt Nam được triển khai toàn diện, với nhiều biện pháp đồng bộ như: Xét nghiệm HIV cho phụ nữ mang thai, điều trị ARV sớm cho mẹ và trẻ, tư vấn chăm sóc sức khỏe sinh sản, cũng như hỗ trợ về tinh thần và dinh dưỡng. Những giải pháp này không chỉ giúp giảm nguy cơ lây truyền HIV, mà còn góp phần cải thiện sức khỏe toàn diện cho phụ nữ mang thai nhiễm HIV và trẻ sơ sinh.

Thực tiễn triển khai tại các địa phương cho thấy, chương trình đã đạt được nhiều kết quả tích cực. Điển hình tại Đồng Nai, BS.CKI Vũ Thị Ngọc, Phó trưởng Khoa phòng chống HIV/AIDS, Trung tâm Kiểm soát bệnh tật Đồng Nai cho biết, nếu được dự phòng tích cực cho mẹ và con thì tỉ lệ này có thể dưới 2%, thậm chí thấp hơn, có nghĩa là cứ 100 phụ nữ nhiễm HIV sinh con thì có 2 trẻ bị lây nhiễm HIV từ mẹ. Tại Đồng Nai những năm gần đây, những bà mẹ nhiễm HIV mang thai đều được điều trị dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con, vì vậy không có trẻ nào sinh ra nhiễm HIV từ mẹ.

Không chỉ đạt tỉ lệ điều trị ARV cao, Đồng Nai còn thường xuyên phối hợp với các tổ chức xã hội và hội phụ nữ cơ sở để tiếp cận những phụ nữ mang thai có nguy cơ cao, tư vấn và xét nghiệm miễn phí.

Song song là công tác truyền thông tại cộng đồng, đặc biệt tại khu vực có đông công nhân nhập cư, đã giúp nâng cao nhận thức và giảm kỳ thị với người nhiễm HIV. Các mô hình quản lý, chăm sóc người bệnh HIV tại tuyến xã được duy trì và tăng cường với sự hỗ trợ từ hệ thống y tế dự phòng. Nhiều cán bộ y tế tại đây đã được đào tạo chuyên sâu về chăm sóc toàn diện mẹ và bé có yếu tố nguy cơ nhiễm HIV.

Tại Yên Bái, chương trình dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con đạt kết quả nổi bật ở việc kết hợp hiệu quả giữa y tế và chính quyền địa phương. UBND cấp xã thường xuyên chỉ đạo lồng ghép tuyên truyền dự phòng lây truyền HIV trong các buổi họp thôn, tổ dân phố.

Bên cạnh đó, ngành y tế tỉnh cũng đã đẩy mạnh ứng dụng công nghệ trong việc theo dõi điều trị, giúp bảo đảm sự liên tục và kịp thời của phác đồ ARV cho phụ nữ mang thai và trẻ em. Các cán bộ y tế tại đây chủ động phối hợp với các trạm y tế xã, phụ nữ thôn bản để phát hiện sớm phụ nữ có nguy cơ và hướng dẫn đến cơ sở y tế chuyên môn.

Chú trọng tiếp cận nhóm đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa

Tại Cao Bằng, ngành y tế tỉnh đặc biệt chú trọng đến tiếp cận nhóm đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa. Các chiến dịch khám lưu động, tư vấn cộng đồng đã góp phần nâng tỉ lệ tiếp cận y tế của phụ nữ mang thai lên rõ rệt. Tỉnh còn triển khai mô hình theo dõi kết quả điều trị thông qua hệ thống hỗ trợ trực tuyến, giúp kết nối giữa bác sĩ tuyến tỉnh và cán bộ y tế cơ sở.

Ngoài ra, việc huy động các tổ chức đoàn thể như Đoàn thanh niên, Hội Nông dân... vào công tác tuyên truyền đã làm thay đổi đáng kể nhận thức cộng đồng về HIV/AIDS và tăng sự đồng thuận xã hội trong chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm. Nhờ đó, những năm gần đây, 100% trẻ sinh ra từ mẹ nhiễm HIV đều âm tính với virus HIV.

Đắk Lắk là một trong những tỉnh miền núi có dân cư phân bố không đồng đều, tỉ lệ sinh con tại nhà còn cao. Đại diện Trung tâm Kiểm soát bệnh tật tỉnh Đắk Lắk cho biết, phụ nữ dân tộc thiểu số thường không khám thai định kỳ, gây khó khăn cho việc xét nghiệm và can thiệp. Để khắc phục, tỉnh đã triển khai mạng lưới tuyên truyền viên là người địa phương – cán bộ Hội Phụ nữ, y tế thôn bản – đến từng nhà vận động phụ nữ mang thai đi khám và làm xét nghiệm HIV.

Đồng thời, cán bộ y tế huyện được tập huấn để xử lý nhanh khi phát hiện ca nhiễm HIV trong thai kỳ. Trong giai đoạn 2022–2024, toàn tỉnh đã phát hiện và điều trị ARV cho 82 phụ nữ mang thai nhiễm HIV, đến nay không có trẻ nào sinh ra từ các ca này bị nhiễm HIV. Đại diện Trung tâm Kiểm soát bệnh tật tỉnh Đắk Lắk nhấn mạnh, việc đẩy mạnh công tác tuyên truyền, xóa bỏ phân biệt đối xử, kỳ thị là việc rất quan trọng, bởi không chỉ chăm sóc y tế mà chúng ta còn phải làm thay đổi nhận thức, xóa bỏ kỳ thị, giúp người bệnh yên tâm điều trị.

Bên cạnh việc đẩy mạnh công tác tuyên truyền, Thanh Hòa còn ứng dụng các mô hình linh hoạt như 'tư vấn tại nhà – theo dõi tại trạm y tế' để bảo đảm phụ nữ mang thai nhiễm HIV được tiếp cận điều trị nhanh nhất.

Bên cạnh đó, thiết lập các nhóm hỗ trợ cộng đồng do người nhiễm HIV khỏe mạnh làm nòng cốt để giúp phụ nữ mang thai tự tin hơn trong điều trị. Giai đoạn 2023–2024, có gần 100 phụ nữ mang thai nhiễm HIV được điều trị ARV kịp thời, trong đó 97% trẻ sinh ra âm tính với HIV.

BS Lê Trường Sơn, Phó Giám đốc Trung tâm Kiểm soát bệnh tật Thanh Hóa cho rằng, ngoài thuốc men và kỹ thuật y tế, điều quan trọng là tâm lý bệnh nhân – nếu họ không được hỗ trợ đúng lúc, nguy cơ bỏ điều trị rất cao. Vì vậy, mô hình phối hợp liên ngành có sự tham gia của Hội Liên hiệp phụ nữ, Đoàn thanh niên, cán bộ xã là hướng đi hiệu quả cần nhân rộng.

Hướng tới mục tiêu loại trừ lây truyền HIV từ mẹ sang con vào năm 2030

Với nhiều năm điều trị bệnh nhi nhiễm HIV, TS.BS Nguyễn Văn Lâm, Giám đốc Trung tâm Bệnh nhiệt đới, Bệnh viện Nhi Trung ương khẳng định, dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con là một trong những thành tựu y tế nổi bật của Việt Nam trong thập kỷ qua. Theo ông, yếu tố then chốt nằm ở việc phát hiện sớm phụ nữ mang thai nhiễm HIV và điều trị ARV càng sớm càng tốt. Khi tải lượng virus trong máu của mẹ được kiểm soát dưới ngưỡng phát hiện, nguy cơ lây sang con gần như bằng 0.

Một nghiên cứu do bệnh viện thực hiện từ 2020 đến 2024 cho thấy, trong hơn 300 ca điều trị tuân thủ nghiêm ngặt, không có trẻ nào nhiễm HIV sau sinh. Tuy nhiên, TS.BS Nguyễn Văn Lâm nhấn mạnh, cần cải thiện nhận thức cộng đồng, bởi vẫn còn tình trạng phụ nữ giấu bệnh hoặc bỏ trị giữa chừng do lo ngại kỳ thị.

Ngoài ra, hệ thống hỗ trợ tư vấn tâm lý và theo dõi sau sinh cũng rất cần thiết để bảo vệ sức khỏe cho cả mẹ và bé. TS Lâm cũng đề xuất tăng cường hợp tác giữa bệnh viện tuyến trung ương và tuyến tỉnh, nhất là tại các tỉnh miền núi, nơi nguồn lực y tế còn hạn chế.

Đại diện Cục Phòng, chống HIV/AIDS (nay là Cục Phòng, bệnh của Bộ Y tế) cho rằng, để đạt được mục tiêu loại trừ lây truyền HIV từ mẹ sang con vào năm 2030, cần tiếp tục tăng cường các hoạt động truyền thông, nâng cao nhận thức của cộng đồng, đặc biệt là phụ nữ mang thai, về lợi ích của việc xét nghiệm HIV sớm và điều trị dự phòng. Đồng thời, giảm kỳ thị và phân biệt đối xử với phụ nữ mang thai nhiễm HIV và trẻ sinh ra từ mẹ nhiễm HIV cũng là một trong những yếu tố quan trọng góp phần vào thành công của chương trình.

Ngoài ra, việc cung cấp đầy đủ các dịch vụ dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con, như xét nghiệm phát hiện nhiễm HIV cho phụ nữ mang thai, cung cấp thuốc ARV cho phụ nữ nhiễm HIV và điều trị dự phòng lây nhiễm HIV cho con, chẩn đoán sớm nhiễm HIV ở trẻ sinh ra từ mẹ nhiễm HIV, cũng cần đặc biệt chú trọng.

Chương trình dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con tại Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả tích cực trong thời gian qua. Đặc biệt, việc duy trì chính sách bảo hiểm y tế toàn dân, mở rộng điều trị ARV đến tận tuyến xã và huy động cộng đồng tham gia hỗ trợ người bệnh đã góp phần nâng cao hiệu quả và tính bền vững của chương trình.

Theo các chuyên gia, ngành y tế cần tiếp tục đầu tư cho hệ thống giám sát, đánh giá, củng cố dữ liệu dịch tễ tại các địa phương, nhằm bảo đảm độ bao phủ dịch vụ và không bỏ sót các ca tiềm ẩn nguy cơ. Việc tiếp tục tăng cường truyền thông, giảm kỳ thị phân biệt đối xử, đặc biệt tại khu vực nông thôn và vùng sâu, vùng xa, sẽ là chìa khóa để bảo vệ thế hệ tương lai khỏi HIV và đạt mục tiêu loại trừ lây truyền HIV từ mẹ sang con vào năm 2030. Đặc biệt, Tháng cao điểm dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con, diễn ra vào tháng 6 hằng năm là dịp quan trọng để đẩy mạnh truyền thông, nâng cao nhận thức và tăng cường xét nghiệm HIV cho phụ nữ mang thai.

Thông qua các chiến dịch truyền thông, tư vấn, khám sàng lọc và can thiệp kịp thời trong thời gian này, nhiều trường hợp đã được phát hiện sớm và dự phòng hiệu quả. Do đó, Tháng cao điểm cần tiếp tục được duy trì và nhân rộng để góp phần đạt mục tiêu quốc gia loại trừ lây truyền HIV từ mẹ sang con vào năm 2030.

Thùy Chi

hiv
}
Top