Mô hình xét nghiệm HIV thân thiện: Giải pháp hiệu quả để mở rộng bao phủ quốc gia
(Chinhphu.vn) - Trong bối cảnh dịch HIV/AIDS tại Việt Nam đang có nhiều chuyển biến tích cực nhưng vẫn tiềm ẩn nguy cơ lây nhiễm “âm thầm” trong cộng đồng, việc mở rộng các mô hình xét nghiệm HIV thân thiện với cộng đồng được coi là một trong những giải pháp chủ lực giúp phát hiện sớm, điều trị kịp thời và giảm nguồn lây.
Lấy cộng đồng, người dân làm trung tâm
Các mô hình xét nghiệm này không chỉ giúp tiếp cận được những nhóm nguy cơ cao – vốn thường e ngại đến các cơ sở y tế công lập – mà còn góp phần thay đổi cách tiếp cận y tế theo hướng lấy người dân làm trung tâm.

Xét nghiệm HIV cho người nguy cơ cao. Ảnh: VGP/Thùy Chi
Trong thời gian qua, để sớm phát hiện tình trạng bệnh, nhiều địa phương đã triển khai các hình thức xét nghiệm HIV sáng tạo như xét nghiệm tại cộng đồng, tự xét nghiệm có hỗ trợ, xét nghiệm lưu động hoặc thông qua mạng lưới cộng tác viên đồng đẳng. Mỗi địa phương có đặc thù riêng, từ đô thị đông dân như TPHCM và Hà Nội, đến các tỉnh công nghiệp như Đồng Nai, hay khu vực có tính chất bán đô thị như Cần Thơ – tất cả đều ghi nhận những kết quả tích cực trong việc phát hiện ca nhiễm HIV mới, kết nối điều trị ARV.
Khái niệm xét nghiệm HIV "thân thiện với cộng đồng" được hiểu là những mô hình cung cấp dịch vụ xét nghiệm HIV theo hướng linh hoạt, gần gũi và giảm rào cản tiếp cận đối với các nhóm có hành vi nguy cơ cao hoặc những người lo ngại bị kỳ thị khi đến cơ sở y tế công. Các mô hình này được xây dựng dựa trên nguyên tắc lấy cộng đồng làm trung tâm, bảo đảm quyền riêng tư, tăng tính chủ động của người được xét nghiệm và hỗ trợ hiệu quả quá trình kết nối điều trị.
Một số hình thức phổ biến hiện nay bao gồm: Tự xét nghiệm HIV có sự hỗ trợ; Xét nghiệm do nhân viên cộng đồng thực hiện tại địa điểm thuận tiện (trạm y tế, trung tâm cộng đồng, điểm hẹn an toàn…); Xét nghiệm lưu động tại khu dân cư, nhà trọ công nhân, khu công nghiệp; Xét nghiệm qua mạng lưới đồng đẳng, đặc biệt trong nhóm nam quan hệ đồng giới (MSM), chuyển giới, người nghiện chích ma túy và phụ nữ mại dâm.
Mục tiêu của mô hình này không chỉ là gia tăng số lượng xét nghiệm mà còn nhằm phát hiện các trường hợp HIV dương tính sớm, tạo cơ hội điều trị ARV kịp thời, giảm nguy cơ lây truyền trong cộng đồng.
Nhiều nghiên cứu quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam cho thấy, việc xét nghiệm thân thiện giúp tăng gấp 2–3 lần tỉ lệ người từng xét nghiệm HIV so với các mô hình truyền thống, đồng thời nâng tỉ lệ kết nối điều trị lên tới trên 95%.
Từ năm 2020, mô hình xét nghiệm HIV thân thiện với cộng đồng đã được lồng ghép vào Chiến lược Quốc gia kết thúc dịch AIDS vào năm 2030. Bộ Y tế cũng ban hành các hướng dẫn kỹ thuật, phối hợp cùng các tổ chức quốc tế như PEPFAR, UNAIDS, PATH… hỗ trợ các địa phương thí điểm và mở rộng mô hình này trên quy mô lớn. Giai đoạn 2024–2025 được coi là thời điểm tăng tốc với hàng loạt địa phương nhân rộng hình thức này nhằm tiến tới mục tiêu 95–95–95 của Liên Hợp Quốc.
Đa dạng hóa mô hình tiếp cận và tăng cường xét nghiệm sớm
Tại Hà Nội, từ năm 2024, Trung tâm Kiểm soát bệnh tật thành phố (CDC Hà Nội) đã phối hợp với các tổ chức cộng đồng triển khai rộng rãi mô hình tự xét nghiệm HIV tại nhà và xét nghiệm có hỗ trợ tại các phòng khám thân thiện. Các nhóm nguy cơ cao như MSM, chuyển giới nữ, và người nghiện chích ma túy là trọng tâm tiếp cận.
Theo thống kê của CDC Hà Nội, trong năm 2024, hơn 42.000 lượt xét nghiệm HIV thân thiện được thực hiện, trong đó tỉ lệ phát hiện dương tính là 2,3%. Đặc biệt, tỉ lệ kết nối điều trị ARV trong vòng 7 ngày sau khi phát hiện đạt tới 97%.
Đại diện Phòng HIV/AIDS, CDC Hà Nội cho biết: Mô hình xét nghiệm thân thiện đã thay đổi hoàn toàn tư duy tiếp cận – từ thụ động sang chủ động, từ bệnh viện ra cộng đồng. Kết quả cho thấy, nhiều người nhiễm HIV đã được phát hiện sớm hơn, giảm nguy cơ lây lan, giảm chi phí điều trị và giúp họ sớm trở lại cuộc sống bình thường.
Tại TPHCM, là địa phương đi đầu trong triển khai xét nghiệm HIV dựa vào cộng đồng. Mạng lưới các tổ chức như Glink, ICS, Life Centre… đã tổ chức hàng nghìn buổi tư vấn, phát bộ tự xét nghiệm và thực hiện xét nghiệm tại nhà cho nhóm MSM, chuyển giới và người bán dâm.
Trong năm 2024, hơn 58.000 lượt xét nghiệm cộng đồng được thực hiện, phát hiện gần 1.500 trường hợp dương tính mới. Số liệu từ Sở Y tế TPHCM cho thấy, gần 95% trong số đó đã được kết nối điều trị ARV tại các phòng khám ngoại trú.
Đại diện Glink TPHCM cho biết, những người nguy cơ cao nhiễm HIV họ cảm thấy an toàn. Họ đỡ e ngại hơn khi đến quán cà phê, phòng trọ, tham gia các nhóm kín trên mạng xã hội để được tiếp cận xét nghiệm HIV. Chính điều đó giúp xóa rào cản tâm lý và tăng hiệu quả xét nghiệm.
Là một tỉnh công nghiệp với hàng trăm nghìn lao động nhập cư, Đồng Nai triển khai xét nghiệm HIV thân thiện tại các nhà trọ, khu lưu trú công nhân và thông qua đội ngũ y tế lưu động. Trong năm 2024, tỉnh đã thực hiện hơn 25.000 lượt xét nghiệm HIV trong cộng đồng, trong đó hơn 800 trường hợp dương tính mới được phát hiện và 93% đã được điều trị ARV trong vòng 2 tuần.
TS. Trần Minh Hòa, Giám đốc CDC Đồng Nai chia sẻ: Để người lao động tham gia xét nghiệm HIV, cần tạo sự tin tưởng, kín đáo, không phân biệt đối xử, kỳ thị. Chính vì vậy, mô hình xét nghiệm thân thiện với cộng đồng góp phần gia tăng số người nhiễm HIV tham gia xét nghiệm hiệu quả.
Đối với Cần Thơ, thành phố đã mở rộng mô hình xét nghiệm HIV đến tuyến y tế cơ sở, đồng thời xây dựng phòng khám thân thiện cho nhóm chuyển giới nữ và MSM. Việc xét nghiệm được tích hợp với các dịch vụ sức khỏe tình dục và tâm lý xã hội.
Trong năm 2024, hơn 19.000 lượt xét nghiệm HIV được thực hiện qua các điểm tiếp cận thân thiện, phát hiện 415 ca dương tính mới. Tỉ lệ kết nối điều trị đạt hơn 92%.
Đại diện Trung tâm Kiểm soát bệnh tật Cần Thơ cho biết: "Chúng tôi coi trọng yếu tố cộng đồng – không ai bị bỏ lại phía sau. Việc kết hợp truyền thông – tư vấn – xét nghiệm đang giúp giảm kỳ thị và tăng tỉ lệ người biết tình trạng HIV của mình".
Tạo mạng lưới dịch vụ linh hoạt để mở rộng phạm vi bao phủ
Từ những kết quả đạt được tại Hà Nội, TPHCM, Đồng Nai và Cần Thơ, có thể rút ra nhiều bài học giá trị về cách tiếp cận cộng đồng hiệu quả trong lĩnh vực phòng, chống HIV/AIDS. Nhiều chuyên gia cho rằng, mô hình xét nghiệm HIV thân thiện với cộng đồng đã chứng minh được tính khả thi, hiệu quả và bền vững nếu được triển khai đúng cách.
Một trong những yếu tố thành công chính là việc thiết kế dịch vụ xét nghiệm phù hợp với đặc thù địa phương và văn hóa của từng nhóm nguy cơ. Việc sử dụng cộng tác viên đồng đẳng, tổ chức xét nghiệm tại nhà hoặc tại các địa điểm quen thuộc, không gò bó về hành chính đã giúp người dân vượt qua rào cản kỳ thị, lo ngại. Đồng thời, lồng ghép xét nghiệm với tư vấn tâm lý, chăm sóc sức khỏe tình dục, hỗ trợ xã hội cũng giúp người được xét nghiệm cảm thấy được đồng hành và tin tưởng.
Việc đa dạng hóa hình thức xét nghiệm – từ tự xét nghiệm có hỗ trợ, xét nghiệm lưu động, đến kết nối y tế cơ sở – đã tạo ra mạng lưới dịch vụ linh hoạt, mở rộng phạm vi bao phủ và tiếp cận đến những người chưa từng hoặc ngại đi xét nghiệm HIV. Tỉ lệ phát hiện dương tính mới và kết nối điều trị cao tại các địa phương là minh chứng rõ ràng cho giá trị của mô hình này.
Tuy nhiên, để mô hình được nhân rộng trên toàn quốc, cần có sự cam kết mạnh mẽ hơn từ trung ương đến địa phương. Trước tiên, cần thể chế hóa các mô hình xét nghiệm thân thiện trong kế hoạch quốc gia phòng, chống HIV/AIDS đến năm 2030. Bộ Y tế cần tiếp tục ban hành hướng dẫn kỹ thuật, gỡ rào cản pháp lý và tạo cơ chế tài chính linh hoạt để các tổ chức cộng đồng có thể tham gia cung cấp dịch vụ chính quy.
Bên cạnh đó, cần có các gói hỗ trợ về đào tạo, cấp vật tư (bộ test), giám sát chất lượng và kết nối điều trị. Việc lồng ghép mô hình xét nghiệm thân thiện vào hệ thống y tế cơ sở là xu hướng nên khuyến khích, nhằm tăng tính bền vững và đảm bảo việc tiếp cận HIV/AIDS là một phần trong chăm sóc sức khỏe toàn diện.
Cuối cùng, truyền thông thay đổi hành vi, nâng cao nhận thức của người dân về quyền được xét nghiệm và điều trị sớm cần tiếp tục được đẩy mạnh, để xét nghiệm HIV không còn là điều "nhạy cảm", mà trở thành việc làm thường quy trong cộng đồng.
Hướng tới phổ cập xét nghiệm HIV thân thiện toàn quốc
Mô hình xét nghiệm HIV thân thiện với cộng đồng đang trở thành một trong những công cụ quan trọng góp phận hiện thực hóa mục tiêu 95-95-95 trong phòng, chống HIV/AIDS tại Việt Nam. Nếu được thực hiện đúng cách, lấy con người làm trung tâm và cộng đồng làm nền tảng, mô hình này có thể vượt qua những rào cản lâu nay của y tế truyền thống.
Việc nhân rộng mô hình không chỉ giúp Việt Nam tiến gần hơn tới mục tiêu 95–95–95 của Liên Hợp Quốc mà còn tạo nên một bước tiến lớn trong cải thiện tiếp cận dịch vụ y tế công bằng, đặc biệt cho các nhóm yếu thế. Đây cũng là minh chứng cho năng lực đổi mới sáng tạo trong hệ thống y tế, với sự tham gia mạnh mẽ của xã hội dân sự, tổ chức cộng đồng và sự hỗ trợ đồng bộ của chính quyền các cấp.
Trong thời gian tới, để hiện thực hóa phổ cập xét nghiệm HIV thân thiện trên toàn quốc, Việt Nam cần tiếp tục đầu tư nguồn lực, cải thiện khung chính sách, thúc đẩy hợp tác công – tư và mở rộng truyền thông toàn dân. Khi quyền được biết, được xét nghiệm và được điều trị HIV được bảo đảm ở mọi cấp độ, thì đó cũng chính là lúc xã hội tiến gần hơn tới một tương lai không còn kỳ thị, không còn HIV/AIDS.
Từ thực tiễn tại các địa phương và hiệu quả đã được kiểm chứng, có thể khẳng định rằng mô hình xét nghiệm HIV thân thiện không chỉ là một lựa chọn thay thế cho cách làm truyền thống, mà đã và đang trở thành một định hướng chiến lược trong kiểm soát dịch HIV/AIDS tại Việt Nam. Quan trọng hơn cả, mô hình này không chỉ dừng ở việc gia tăng số lượng xét nghiệm, mà còn góp phần chuyển dịch nhận thức cộng đồng, từng bước làm mờ đi ranh giới của sự kỳ thị và phân biệt đối xử.
Trong bối cảnh Việt Nam đang hướng tới mục tiêu chấm dứt dịch AIDS vào năm 2030, việc nhân rộng các mô hình xét nghiệm HIV thân thiện cần được xem là một phần cấu thành không thể thiếu trong chiến lược quốc gia. Mô hình xét nghiệm thân thiện không chỉ là giải pháp, mà là biểu tượng cho một nền y tế nhân văn, vì cộng đồng và hướng tới công bằng y tế toàn dân.
Thùy Chi