Nghiên cứu độ an toàn của phụ nữ mang thai khi sử dụng PrEP

17/08/2022 09:09

(Chinhphu.vn) - Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) khuyến cáo phụ nữ mang thai và cho con bú có nguy cơ nhiễm HIV nên được cung cấp PrEP hàng ngày có chứa tenofovir disoproxil fumarate (TDF).

Nghiên cứu độ an toàn của phụ nữ mang thai khi sử dụng PrEP - Ảnh 1.

Ảnh minh họa

Khuyến nghị này được đưa ra sau các nghiên cứu, khảo sát từ nhiều phụ nữ nhiễm HIV đã sử dụng TDF trong thời kỳ mang thai. Kết quả nghiên cứu cho thấy loại thuốc này an toàn cho cả phụ nữ mang thai và trẻ sơ sinh.

Các nghiên cứu đã xem xét kết quả tăng trưởng và phát triển thần kinh của trẻ sơ sinh trong độ tuổi từ 2 đến 3 tuổi có mẹ đã sử dụng PrEP (tenofovir disoproxil fumarate / emtricitabine) trong thời kỳ mang thai và không tìm thấy sự khác biệt giữa những bà mẹ mang thai có sử dụng hay không sử dụng PrEP. Đối với các nghiên cứu trước đây về PrEP trong thai kỳ chỉ đo lường kết quả của trẻ sơ sinh đến 12 tháng sau khi sinh.

Cho đến nay, có 6 nghiên cứu báo cáo về tính an toàn của PrEP trong thai kỳ. Mặc dù kết quả nghiên cứu đã khẳng định tính an toàn của PrEP đối với phụ nữ mang thai. Tuy nhiên, trước đó một số nghiên cứu ban đầu về hiệu quả của PrEP (FEM-PrEP, VOICE và Partners PrEP) lại cho thấy việc mang thai là tiêu chí loại trừ, nghĩa là ngừng PrEP khi phát hiện có thai. Do đó, những nghiên cứu này chỉ cung cấp dữ liệu về việc tiếp xúc với PrEP trong thời gian ngắn, sớm trong 3 tháng đầu thai kỳ. Các nghiên cứu khác bao gồm phụ nữ mang thai nhưng chỉ đánh giá kết quả của trẻ sơ sinh cho đến 1 năm sau khi sinh.

Do cần có thêm bằng chứng, một nhóm các nhà nghiên cứu từ Bệnh viện Quốc gia Kenyatta và Đại học Washington đã nghiên cứu PrIMA-X để cung cấp dữ liệu dài hạn về sự an toàn của việc sử dụng PrEP trong thai kỳ. Các nghiên cứu này liên quan đến việc đo lường sự tăng trưởng và phát triển thần kinh ở trẻ em có và không tiếp xúc với PrEP trước khi sinh từ sơ sinh đến 5 tuổi.

Trong nghiên cứu PrIMA, 4.447 phụ nữ âm tính với HIV ở miền tây Kenya đã được đăng ký sử dụng PrEP trong khi mang thai và được đánh giá định kỳ cho đến 9 tháng sau khi sinh, bất kể họ có dùng PrEP hay không.

Đối với nghiên cứu PrIMA-X, dữ liệu có sẵn cho 664 cặp mẹ con. Tuổi trung bình của bà mẹ và trẻ em khi tham gia vào nhóm là 28 tuổi và 26 tháng. Chỉ có 119 (17%) bắt đầu PrEP khi mang thai. Các bà mẹ bắt đầu sử dụng PrEP khi thai được 27 tuần tuổi, dùng thuốc này trong khoảng thời gian trung bình là 2,4 tháng khi mang thai, và 54% tiếp tục sử dụng PrEP 9 tháng sau khi sinh.

Kết quả cho thấy không có sự khác biệt giữa các nhóm phụ nữ mang thai đã và chưa sử dụng PrEP về tình trạng hôn nhân, trình độ học vấn, số con còn sống hoặc sinh non. Trong phân tích thống kê của họ về mối liên quan giữa việc tiếp xúc với PrEP trước khi sinh và sự tăng trưởng và phát triển thần kinh, các nhà nghiên cứu đã điều chỉnh một số khác biệt tiềm ẩn giữa những người đã và không sử dụng PrEP trong khi mang thai. Bao gồm tuổi, tình trạng HIV của bạn tình, chẩn đoán giang mai khi mang thai và thời gian mang thai.

Nghiên cứu cũng cho thấy, trẻ sơ sinh tiếp xúc với PrEP trong khi mang thai không bị khả năng bị thấp còi, gầy còm hoặc nhẹ cân hơn trẻ không tiếp xúc với PrEP. Chiều dài và cân nặng của trẻ giống nhau khi 24, 30 hoặc 36 tháng. Sự phát triển thần kinh giữa trẻ sơ sinh tiếp xúc với PrEP trong thai kỳ và những trẻ không được tiếp xúc cũng giống nhau. Do đó, những phát hiện sơ bộ này hỗ trợ các nghiên cứu trước đây chỉ ra rằng sử dụng PrEP trong thai kỳ là an toàn. Tuy nhiên, số bà mẹ đã sử dụng PrEP trong thai kỳ tương đối ít. Các nhà nghiên cứu đang dự kiến tiếp nhận thêm 525 cặp mẹ - con và sẽ tiếp tục thu thập dữ liệu cho đến 60 tháng sau khi sinh - điều này sẽ làm sáng tỏ sự an toàn lâu dài của PrEP trong thai kỳ.

Trong tương lai, nhóm nghiên cứu dự định sẽ đánh giá mối quan hệ giữa việc sử dụng PrEP trong thời kỳ mang thai với mật độ khoáng xương của trẻ sơ sinh và nhận thức thần kinh. Họ cũng sẽ phân tích mức độ phơi nhiễm PrEP bằng cách sử dụng mẫu tóc và máu khô (chính xác hơn là dựa vào tự báo cáo) để xem mức độ phơi nhiễm PrEP có ảnh hưởng đến kết quả của trẻ sơ sinh hay không.

Thùy Chi

Top