Nhìn lại chặng đường 10 năm bảo đảm tài chính cho chương trình phòng, chống HIV/AIDS
(Chinhphu.vn) - Trải qua 10 năm nỗ lực không ngừng với cam kết chính trị mạnh mẽ, Việt Nam đã thực hiện tiến trình chuyển đổi các nguồn lực tài chính trong nước, bảo đảm tài chính cho công tác HIV/AIDS với nhiều kết quả ấn tượng.
Đề án bảo đảm tài chính - Chiến lược hành lang pháp lý quan trọng
Công cuộc phòng, chống HIV/AIDS đã trải qua hơn 30 năm và thu được nhiều thành tựu quan trọng. Việt Nam đã từng bước kiểm soát được dịch HIV trên cả 3 tiêu chí đó là: Giảm số người nhiễm mới HIV được phát hiện, giảm số người chuyển sang giai đoạn AIDS và giảm số người tử vong liên quan đến AIDS.
Nếu thời điểm đỉnh cao của dịch cách đây 13 năm, khi đó mỗi năm chúng ta phát hiện được khoảng hơn 30.000 trường hợp nhiễm HIV và khoảng 10.000 trường hợp tử vong liên quan đến HIV/AIDS thì có thời điểm chúng ta đã giảm tỉ lệ này xuống chỉ còn tương ứng với 1/3 và 1/5 ở thời kỳ dịch đỉnh cao.
Tuy nhiên, Việt Nam đã giữ vững tỉ lệ nhiễm HIV trong cộng đồng dân cư luôn ở mức dưới 0,3%. Đây là những con số rất ấn tượng nói lên sự cam kết chính trị mạnh mẽ, cũng như sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị ở Việt Nam.
Để đạt được những thành tựu này, không thể không nói đến sự hỗ trợ to lớn về nguồn lực tài chính và kỹ thuật của các tổ chức quốc tế trong suốt nhiều năm qua, mà có những thời điểm kinh phí hỗ trợ của các tổ chức quốc tế đóng góp tới 80% kinh phí chi cho các dịch vụ phòng, chống HIV/AIDS.
Nhiều tổ chức song phương và đa phương đã chung tay hỗ trợ Việt Nam như Chính phủ Hoa Kỳ (thông qua PEPFAR), Australia (qua AusAID), Chính phủ Anh (qua Bộ Phát triển quốc tế Anh phối hợp với Bộ Ngoại giao Na Uy), Chính phủ Hà Lan (đóng góp cùng AusAID); Chính phủ Thụy Điển, các tổ chức đa phương bao gồm: UNDP, UNFPA, UNAIDS, Tổ chức Y tế Thế giới, UNICEF, UNODC; Quỹ toàn cầu phòng chống AIDS, Lao và Sốt rét; Các tổ chức tài chính Quốc tế như Ngân hàng phát triển châu Á, Ngân hàng Thế giới và các tổ chức phi Chính phủ nước ngoài như FHI, Quỹ Bill Clinton, PSI, PATH hay AHF…
Từ năm 2013, khi Việt Nam ra khỏi nhóm quốc gia có thu nhập thấp, nguồn hỗ trợ quốc tế bắt đầu cắt giảm. Chính phủ Việt Nam xác định huy động nguồn tài chính trong nước là chiến lược để bảo đảm tính bền vững cho chương trình HIV/AIDS. Quyết tâm của Chính phủ được thể hiện bằng sự ra đời của Quyết định 1899/QĐ-TTg vào ngày 15/10/2013, phê duyệt Kế hoạch bảo đảm tài chính cho các hoạt động phòng, chống HIV/AIDS giai đoạn 2013-2020, mở ra thời kỳ chuyển đổi cơ cấu tài chính cho chương trình phòng, chống HIV/AIDS với sự tăng lên mạnh mẽ của các nguồn lực tài chính trong nước.
Các nhóm giải pháp chủ chốt đã được chính phủ xác định để huy động nguồn lực cho chương trình phòng, chống HIV/AIDS, bao gồm: Huy động ngân sách địa phương cho chương trình HIV/AIDS và tăng cường sự đầu tư của ngân sách trung ương thông qua Chương trình mục tiêu phòng, chống HIV/AIDS và Chương trình Mục tiêu Y tế, Dân số; Mở rộng chi trả BHYT cho dịch vụ khám chữa bệnh HIV/AIDS; Tăng cường sự tham gia của khối tư nhân và cộng đồng người sống chung với HIV trong phòng chống HIV/AIDS; Tiếp tục huy động các nguồn tài trợ quốc tế; Quản lý, phân bổ và sử dụng hiệu quả nguồn tài chính huy động được.
Trong đó, huy động ngân sách địa phương được xác định là nguồn tài chính quan trọng nhằm tăng tính chủ động và nhận thức của chính quyền địa phương về công tác phòng, chống HIV/AIDS.
Có thể nói cho đến nay, đây là chương trình y tế duy nhất tại Việt Nam có riêng một Quyết định của Thủ tướng Chính phủ hướng dẫn về cơ chế cho việc bảo đảm tài chính cho một chương trình. Đề án đã tạo hành lang pháp lý quan trọng cho việc thực hiện các giải pháp bảo đảm tài chính bền vững cho phòng, chống HIV/AIDS một cách căn bản và chiến lược với nhiều nhóm giải pháp, từ huy động các nguồn tài chính, tới quản lý và sử dụng chương trình hướng tới hiệu quả.
Thực hiện Quyết định 1899/QĐ-TTg, Bộ Y tế đã xây dựng lộ trình thực hiện các giải pháp một cách hiệu quả, trong đó hướng dẫn đôn đốc và hỗ trợ các tỉnh, thành phố phổ biến, triển khai và xây dựng kế hoạch bảo đảm tài chính cho cả giai đoạn.
Bảo hiểm y tế là bước đột phá của chương trình phòng, chống HIV/AIDS
Trải qua 10 năm nỗ lực không ngừng với cam kết chính trị mạnh mẽ của chính quyền các cấp từ trung ương đến các tỉnh, thành phố, sự phối hợp chặt chễ của các bộ ngành trong quá trình xây dựng các cơ chế chính sách, sự hỗ trợ kỹ thuật và tài chính quý báu của cộng đồng các nhà tài trợ, Việt nam đã thực hiện tiến trình chuyển đổi các nguồn lực tài chính trong nước cho công tác HIV/AIDS với nhiều kết quả ấn tượng.
Cụ thể, tỷ trọng các nguồn tài chính trong nước đã tăng lên tới hơn 51%, trong đó tỷ trọng ngân sách địa phương phân bổ cho phòng, chống HIV/AIDS không ngừng tăng lên qua các năm tăng từ 8% lên tới 17%.
Năm 2020, Chiến lược quốc gia kết thúc dịch bệnh AIDS vào năm 2030 được Chính phủ phê duyệt, trong đó đặt ra chỉ tiêu năm 2021, 100% các tỉnh, thành phố phải có kế hoạch hoặc đề án bảo đảm tài chính và phân bổ ngân sách địa phương hằng năm cho phòng, chống HIV/AIDS. Đến nay đã có 51/63 tỉnh, thành phố phê duyệt Kế hoạch bảo đảm tài chính chấm dứt dịch bệnh AIDS vào năm 2030.
Một trong những giải pháp bảo đảm tài chính cho phòng, chống HIV/AIDS quan trọng khác cũng đã được Chính phủ Việt Nam thực hiện rất thành công là bảo hiểm y tế cho người nhiễm HIV. Bảo hiểm y tế chính là bước đột phá của chương trình phòng, chống HIV/AIDS tại Việt Nam với 95% người nhiễm HIV tham gia BHYT tăng gấp 2 lần trong vòng 5 năm.
Quỹ bảo hiểm y tế đến nay trung bình chi trả 400 tỷ đồng/năm trong đó khoảng 200 tỷ đồng cho dịch vụ khám chữa bệnh bảo hiểm y tế và 200 tỷ đồng cho thuốc ARV nguồn quỹ BHYT, nâng tỷ trọng của Quỹ bảo hiểm y tế trong tổng chi cho HIV/AIDS tăng từ 4% lên tới 9%, chiếm tới 25% nguồn lực trong nước cho HIV.
Để đạt được kết quả trên, hàng loạt giải pháp đã được thực hiện nhằm bảo đảm 100% người nhiễm HIV có thẻ bảo hiểm y tế và Quỹ bảo hiểm y tế chi trả dịch vụ khám chữa bệnh HIV bao gồm cả thuốc ARV.
Cụ thể, năm 2015, Bộ Y tế chỉ đạo kiện toàn các phòng khám ngoại trú HIV, bảo đảm đủ điều kiện cung cấp dịch vụ khám chữa bệnh bảo hiểm y tế; Năm 2016: Chính phủ ban hành Quyết định 2188 bảo đảm cơ chế đặc thù mua sắm và thanh toán thuốc ARV nguồn bảo hiểm y tế; Năm 2017-2018: Bộ Y tế xây dựng và ban hành Thông tư 28 quy định mua sắm thuốc ARV tập trung sử dụng quỹ bảo hiểm y tế và hỗ trợ đồng chi trả thuốc ARV cho bệnh nhân HIV; Năm 2019: viên thuốc ARV nguồn Quỹ bảo hiểm y tế đầu tiên chính thực được kê đơn tại các cơ sở điều trị ARV.
Kể từ đây, Quỹ bảo hiểm y tế đã ngày càng đóng một vai trò quan trọng trong việc chi trả thuốc ARV cho người nhiễm HIV, thay thế dần nguồn thuốc ARV do các tổ chức quốc tế viện trợ. Nếu trước năm 2013, 90% chi phí thuốc ARV là do PEPFAR và Quỹ toàn cầu hỗ trợ thì đến nay bảo hiểm y tế đã chi trả tới 70% chi phí này. Nhờ đó, Việt Nam trở thành một hình mẫu của các quốc gia trên thế giới về việc chi trả thuốc ARV cho bệnh nhân HIV.
Huy động đóng góp từ khu vực tư nhân
Một giải pháp khác để huy động nguồn tài chính bền vững cho chương trình phòng, chống HIV/AIDS ở Việt Nam là huy động đóng góp tài chính, nhân lực từ khu vực tư nhân, doanh nghiệp và các tổ chức xã hội cùng cộng đồng người nhiễm HIV. Chỉ tính riêng giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2021 đã có hơn 150 đối tác thuộc khu vực tư nhân tham gia vào chương trình phòng chống HIV/AIDS của Việt Nam với tổng đầu tư hơn 12.6 triệu USD.
Để bảo đảm sự tham gia bền vững của các tổ chức chức xã hội trong phòng, chống HIV/AIDS, Bộ Y tế cũng đang thí điểm mua sắm dịch vụ phòng, chống HIV/AIDS với các tổ chức xã hội, Đề án này được thí điểm triển khai tại 7 tỉnh thành phố. Nếu đề án thí điểm thành công và hàng lang pháp lý hoàn thiện, các tổ chức xã hội có thêm cơ hội tham gia một cách bền vững và đóng góp cho chương trình phòng, chống HIV/AIDS từ nguồn ngân sách trong nước.
Hiện nay, Việt Nam vẫn đang là quốc gia có thu nhập trung bình thấp. Nhận thức được điều này, bên cạnh việc chủ động chuyển giao tài chính từ các tổ chức quốc tế sang nguồn lực trong nước, Chính phủ Việt Nam vẫn xác định tiếp tục huy động và sử dụng hiệu quả nguồn viện trợ quốc tế.
Mặc dù từ năm 2013 đến nay viện trợ quốc tế đã giảm đi nhưng một số nhà tài trợ quốc tế vẫn đồng hành cùng Việt Nam. Bên cạnh sự hỗ trợ của Chính phủ Hoa Kỳ thông qua PEPFAR và các đối tác thực hiện; Quỹ Toàn Cầu tiếp tục hỗ trợ Việt Nam trong suốt quá trình chuyển giao. Ngoài ra, các tổ chức Liên Hợp Quốc như UNAIDS, UNODC và WHO cũng tiếp tục cung cấp nguồn lực quan trong cho các hoạt động phòng chống HIV/AIDS của Việt Nam.
Trong những năm gần đây, để quản lý và sử dụng hiệu quả các nguồn lực, Chương trình phòng, chống HIV/AIDS đã xây dựng kế hoạch thống nhất hàng năm cho cả nguồn viện trợ và nguồn ngân sách nhà nước, với kinh phí ưu tiên tập trung cho các tỉnh thành trọng điểm. Việc quản lý và điều phối các nguồn lực cho chương trình phòng, chống HIV/AIDS bảo đảm tính hợp lý và chặt chẽ theo đúng các quy định của pháp luật Việt Nam và các nhà tài trợ.
Cần tăng cường nguồn lực trong nước để bảo đảm tài chính bền vững
Nhìn lại chặng đường một thập kỷ nỗ lực chuyển đổi cơ cấu tài chính, huy động nguồn lực trong nước cho chương trình phòng chống HIV/AIDS, tổng chi tiêu cho HIV/AIDS từ các nguồn lực trong nước đã tăng lên một cách ngoạn mục, nếu trước năm 2013, ngân sách trong nước cho chương trình phòng, chống HIV/AIDS chỉ khoảng hơn 20% thì năm 2018 đánh dấu mốc quan trọng khi nguồn tài chính trong nước cho chương trình HIV/AIDS đạt hơn 50%, lần đầu tiên vượt tỷ trọng nguồn viện trợ quốc tế.
Tuy nhiên, vẫn còn nhiều thách thức để bảo đảm tài chính bền vững cho chương trình phòng, chống HIV/AIDS trong thời gian tới. Điển hình, nguồn lực huy động dự kiến thời giai đoạn 2021-2030 mới chỉ đáp ứng được 60-70% nhu cầu. Trong bối cảnh tình hình dịch đang có xu hướng phức tạp: Số người nhiễm HIV được báo cáo tăng cao trong 3 năm trở lại đây tới hơn 13.000 trường hợp, nhiễm HIV tăng nhanh trong nhóm nam quan hệ đồng giới, nhóm chuyển giới...; một số tỉnh, khu vực vẫn còn nhiều nguy cơ cao về bùng phát dịch trở lại như Đồng bằng sông Cửu long, miền đông nam bộ; Nguồn tài chính cho chương trình phòng, chống HIV/AIDS vẫn còn phụ thuộc tới gần 50% vào các dự án quốc tế nhất là các hoạt động thuộc lĩnh vực dự phòng lây nhiễm HIV hiện Quỹ Bảo hiểm y tế sẽ không chi trả…
Chiến lược quốc gia chấm dứt dịch bệnh AIDS vào năm 2030 ở Việt Nam đã được Chính phủ ban hành với mục tiêu đến năm 2030, khi đó HIV/AIDS không còn là vấn đề sức khỏe đáng lo ngại với mỗi cá nhân và cộng đồng. Để đạt được mục tiêu này, Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn khi dần trở thành nước phát triển, ngân sách trong nước chi cho chương trình phòng, chống HIV/AIDS sẽ có nhiều thuận lợi hơn. Tuy vậy, thách thức về tài chính cho phòng, chống HIV/AIDS cũng không nhỏ trong bối cảnh đầu tư công cần tăng cao.
Đưa ra giải pháp cho vấn đề này, Bộ trưởng Bộ Y tế Đào Hồng Lan cho biết, để đạt được mục tiêu mà Chiến lược kết thúc dịch bệnh AIDS đã được Chính phủ đề ra, trong bối cảnh các nguồn tài trợ quốc tế cắt giảm và chuyển sang tập trung hỗ trợ kỹ thuật, mô hình dịch thay đổi phức tạp, chương trình dự phòng còn lệ thuộc nhiều vào nguồn hỗ trợ quốc tế, Việt Nam cần tiếp tục tăng cường huy động nguồn lực trong nước, trong đó ngân sách nhà nước bảo đảm các hạng mục thiết yếu như thuốc và vật dụng can thiệp giảm tác hại.
Bên cạnh đó, ngân sách địa phương phải được coi là nguồn lực chính tại các tỉnh, thành phố. Quỹ bảo hiểm y tế chi trả đầy đủ các dịch vụ khám chữa bệnh HIV/AIDS cho người bệnh có thẻ bảo hiểm y tế. Đặc biệt phải xây dựng cơ chế tài chính bảo đảm cho chương trình dự phòng lây nhiễm HIV.
Ngoài ra, cần đẩy mạnh khu vực tư nhân, các tổ chức cộng đồng tham gia đầu tư, cung cấp dịch vụ phòng, chống HIV/AIDS, song song với việc triển khai mạnh mẽ các giải pháp điều phối sử dụng nguồn lực hiệu quả, đầu tư vào các địa bàn và đối tượng nguy cơ cao để bảo đảm nguồn lực tài chính, tiến tới kết thúc dịch bệnh AIDS tại Việt Nam.
Suốt một thập kỉ qua, với sự quyết tâm và những nỗ lực không ngừng nghỉ, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị đã mang lại nhiều kết quả nổi bật cho hành trình chuyển giao tài chính bền vững trong chương trình phòng, chống HIV/AIDS của Việt Nam. Những kết quả này đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận. Có thể khẳng định, những quyết tâm và chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước cho chương trình phòng, chống HIV/AIDS giúp chúng ta hoàn toàn tin tưởng về một Việt Nam có thể kết thúc đại dịch AIDS vào năm 2030.
Lan Anh