Giải pháp ngăn ngừa bỏ điều trị ARV: Hướng tới sức khỏe bền vững cho người nhiễm HIV

14/05/2025 14:15

(Chinhphu.vn) - Tình trạng người nhiễm HIV bỏ điều trị vẫn đang là một thách thức nghiêm trọng, có thể làm ảnh hưởng đến mục tiêu quốc gia chấm dứt dịch bệnh AIDS vào năm 2030.

Rào cản khiến bệnh nhân điều trị HIV gián đoạn điều trị

Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong công cuộc phòng, chống HIV/AIDS suốt hơn ba thập kỷ qua. Đặc biệt, chương trình điều trị HIV bằng thuốc kháng virus ARV đã mang lại hy vọng sống khỏe mạnh và kiểm soát bệnh cho hàng trăm nghìn người nhiễm HIV. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công đáng ghi nhận, thách thức lớn vẫn còn tồn tại, đặc biệt là tình trạng người bệnh bỏ điều trị ARV, làm gián đoạn quá trình kiểm soát tải lượng virus và dẫn tới nhiều hệ lụy nghiêm trọng cả về mặt y tế lẫn xã hội.

Giải pháp ngăn ngừa bỏ điều trị ARV: Hướng tới sức khỏe bền vững cho người nhiễm HIV- Ảnh 1.

Tư vấn điều trị cho bệnh nhân nhiễm HIV. Ảnh: VGP/Thùy Chi

Theo báo cáo mới nhất của Cục Phòng, chống HIV/AIDS (Bộ Y tế), tính đến hết năm 2024, Việt Nam ước tính có khoảng 267.391 người nhiễm HIV, trong đó 245.489 người còn sống. Số người nhiễm mới trong năm lên đến 12.927 ca, với 1.516 người tử vong do AIDS. Đáng chú ý, tỉ lệ nhiễm HIV có xu hướng gia tăng ở nhóm nam quan hệ tình dục đồng giới (MSM), chiếm khoảng 40% trong số ca nhiễm mới, chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn như TPHCM, Hà Nội, Cần Thơ và các tỉnh miền Nam.

Mặc dù số người đang điều trị ARV đạt tỉ lệ khá cao, tuy nhiên nhiều địa phương vẫn đối mặt với tình trạng bệnh nhân bỏ điều trị do nhiều nguyên nhân khác nhau. Điển hình tại Khánh Hòa, năm 2024 ghi nhận hơn 45 trường hợp bỏ điều trị. Bác sĩ Tôn Thất Toàn, Phó Giám đốc phụ trách Trung tâm Kiểm soát bệnh tật Khánh Hòa cho biết, nguyên nhân chính đến từ việc người bệnh không xin được giấy chuyển tuyến, các phòng khám HIV ở tuyến huyện bị giải thể. Ngoài ra, tâm lý sợ bị đối xử, phân biệt kỳ thị khi đến khám tại tuyến tỉnh cũng khiến nhiều bệnh nhân từ chối tiếp tục điều trị.

Tại Đắk Lắk, số người tử vong do AIDS trong năm 2024 là 144 người, tăng gần 5 lần so với năm trước. Số ca nhiễm mới cũng tăng cao, với 115 trường hợp được phát hiện. Đại diện Trung tâm Kiểm soát bệnh tật Đắk Lắk cho biết, phần lớn bệnh nhân bỏ điều trị là người dân tộc thiểu số sống ở vùng sâu vùng xa, điều kiện đi lại khó khăn và kiến thức về HIV còn hạn chế. Họ chưa hiểu được tầm quan trọng của việc điều trị liên tục và thường dựa vào các phương thức chữa trị dân gian.

Tại Quảng Ninh, tỉ lệ người điều trị ARV đạt tải lượng virus dưới ngưỡng ức chế là 96%, tuy nhiên vẫn tồn tại nhóm nguy cơ cao bỏ điều trị như người sử dụng ma túy, người hành nghề mại dâm. Đại diện Trung tâm Kiểm soát bệnh tật Quảng Ninh cho biết, ngành y tế tỉnh đã tăng cường phối hợp với các tổ chức xã hội để tiếp cận các nhóm này, nhưng sự kỳ thị và rào cản pháp lý vẫn là trở ngại lớn.

Tại Cần Thơ, với tỉ lệ tải lượng virus dưới ngưỡng ức chế lên tới 97%, mô hình điều trị thân thiện, hỗ trợ tâm lý, tư vấn từ nhóm đồng đẳng đã mang lại nhiều hiệu quả. Tuy nhiên, vẫn có một bộ phận người chuyển giới và người hành nghề mại dâm chưa được tiếp cận điều trị đầy đủ. Đại diện Trung tâm Kiểm soát bệnh tật Cần Thơ cho biết: "Chúng tôi đang mở rộng các mô hình phòng khám thân thiện và hợp tác với cộng đồng để tiếp cận những người bị kỳ thị, giúp họ cảm thấy an toàn khi đến điều trị".

Thời gian qua, Trung tâm Kiểm soát bệnh tật Cần Thơ đã triển khai nhiều hoạt động nhằm xây dựng môi trường y tế thân thiện và lấy khách hàng làm trung tâm trong công tác phòng, chống HIV/AIDS. Một ví dụ điển hình là buổi giao lưu và chia sẻ với chủ đề "Y tế thân thiện – Khách hàng chủ động" được tổ chức vào ngày 28/4/2025, với sự phối hợp của Trường Đại học Y Hà Nội và các tổ chức cộng đồng. Sự kiện này nhằm thúc đẩy môi trường y tế thân thiện, đáp ứng nhu cầu của người bệnh và giảm kỳ thị trong chăm sóc sức khỏe, giúp người bệnh mạnh dạn kết nối với các cơ sở điều trị, hướng tới điều trị liên tục, bền vững.

Hậu quả nghiêm trọng khi bỏ điều trị

Việc bỏ điều trị ARV ở người nhiễm HIV không chỉ là vấn đề cá nhân mà còn tạo ra nhiều hệ lụy nghiêm trọng về mặt y tế và xã hội.

Nếu bỏ điều trị sẽ làm tăng nguy cơ tái phát bệnh nặng và tử vong. Bởi ARV giúp kiểm soát lượng virus HIV trong cơ thể, ngăn chặn sự nhân lên của virus, từ đó giúp hệ miễn dịch người bệnh phục hồi và giảm thiểu nguy cơ nhiễm trùng cơ hội. Khi người bệnh bỏ điều trị, tải lượng virus tăng trở lại, hệ miễn dịch bị suy giảm nghiêm trọng, dẫn đến nguy cơ mắc các bệnh nhiễm trùng cơ hội như lao, viêm phổi, viêm màng não, và các bệnh ung thư liên quan đến HIV. Ngoài ra, tỉ lệ tử vong ở người bỏ điều trị ARV cao gấp 5–10 lần so với người duy trì điều trị liên tục.

Điển hình tại tỉnh Đắk Lắk, năm 2024 có 144 trường hợp tử vong do AIDS, tăng gần 5 lần so với năm trước. Phần lớn các ca tử vong là người dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa, do thiếu hiểu biết về tầm quan trọng của điều trị liên tục, hoặc gặp khó khăn trong việc tiếp cận dịch vụ y tế.

Thứ hai, làm gia tăng nguy cơ lây nhiễm HIV trong cộng đồng. Khi người nhiễm HIV không dùng thuốc đều đặn, tải lượng virus trong máu và dịch cơ thể tăng cao, nguy cơ lây nhiễm cho người khác cũng tăng lên, đặc biệt là qua quan hệ tình dục không an toàn, dùng chung bơm kim tiêm hoặc lây truyền từ mẹ sang con.

Theo báo cáo của Cục Phòng, chống HIV/AIDS (nay là Cục Phòng bệnh), nhóm nam quan hệ tình dục đồng giới (MSM) chiếm khoảng 40% số ca nhiễm mới. Việc bỏ điều trị không chỉ gây nguy hiểm cho người bệnh mà còn đe dọa đến cộng đồng, nhất là các nhóm dễ bị tổn thương.

Thứ ba, việc bỏ điều trị sẽ dẫn đến nguy cơ phát triển chủng HIV kháng thuốc. Một trong những hậu quả nguy hiểm nhất của việc bỏ điều trị ARV là làm tăng nguy cơ phát triển chủng HIV kháng thuốc. Khi virus không bị ức chế liên tục bởi thuốc ARV, nó có thể đột biến, trở nên kháng lại các loại thuốc đang sử dụng. Điều này dẫn đến việc phải thay đổi phác đồ điều trị sang các loại thuốc đắt tiền hơn, khó tiếp cận hơn, và ít hiệu quả hơn.

Theo TS. Nguyễn Hoàng Long, nguyên Cục trưởng Cục Phòng, chống HIV/AIDS, việc bệnh nhân bỏ điều trị không chỉ khiến cá nhân họ chịu nguy cơ tái phát nặng và tử vong, mà còn đe dọa lan truyền virus ra cộng đồng. Hơn nữa, điều này có thể tạo ra chủng HIV kháng thuốc, làm phức tạp quá trình điều trị trong tương lai.

Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) cũng đã cảnh báo rằng, sự xuất hiện của các chủng HIV kháng thuốc đang trở thành một trong những thách thức lớn nhất trong cuộc chiến chống lại đại dịch này. Nếu không kiểm soát, nguy cơ bùng phát dịch HIV với các chủng kháng thuốc sẽ trở nên khó kiểm soát và làm tăng chi phí điều trị lên gấp nhiều lần.

Thứ tư, khi nhiều bệnh nhân bỏ điều trị sẽ trở thành gánh nặng tài chính cho gia đình và xã hội. Bởi nếu tình trạng sức khỏe suy giảm nhanh chóng, cần điều trị bệnh lý cơ hội và các biến chứng, kéo theo chi phí y tế tăng cao. Đối với những người sống ở vùng sâu, vùng xa, kinh tế khó khăn, việc tái nhập viện hoặc chuyển tuyến điều trị là một gánh nặng lớn cho gia đình.

Không chỉ ảnh hưởng đến kinh tế cá nhân, tình trạng này còn tạo thêm áp lực lên hệ thống y tế. Các bệnh viện và trung tâm y tế phải dành nhiều nguồn lực hơn để điều trị các biến chứng phức tạp, kiểm soát lây nhiễm, và hỗ trợ bệnh nhân tái hòa nhập điều trị.

Bà Nguyễn Thị Thanh Huyền, Đại học Y Hà Nội cho rằng, cần có các chính sách hỗ trợ kịp thời, đặc biệt cho những người ở vùng sâu vùng xa và các nhóm bị kỳ thị, nếu không chúng ta sẽ khó đạt được mục tiêu 95–95–95 vào năm 2030.

Ngoài ra, việc bỏ điều trị làm giảm tỉ lệ người bệnh đạt được ngưỡng ức chế virus, đồng nghĩa với việc nguy cơ lây nhiễm ra cộng đồng không được kiểm soát. Nếu không giải quyết triệt để vấn đề này, mục tiêu 95–95–95 sẽ khó có thể đạt được, đẩy lùi thành quả hơn ba thập kỷ nỗ lực phòng, chống HIV/AIDS của Việt Nam.

Giải pháp hướng đến điều trị liên tục và bền vững

Để ngăn ngừa tình trạng bỏ điều trị ARV, nhiều địa phương đã triển khai các giải pháp hỗ trợ người bệnh tiếp tục điều trị. Điển hình, tại Khánh Hòa, Trung tâm Kiểm soát bệnh tật tỉnh đã phối hợp với các trung tâm y tế xã, phường để phát thuốc ARV tận nơi hoặc qua các nhóm cộng đồng.

Tại Cần Thơ, ngành y tế thành phố đã phát triển mô hình điều trị thân thiện, hỗ trợ tâm lý, tư vấn từ nhóm đồng đẳng, giúp người bệnh cảm thấy an toàn khi tiếp cận y tế.

Tại Quảng Ninh, ngành y tế tỉnh đã tập trung mở rộng mạng lưới tiếp cận nhóm MSM và người chuyển giới thông qua các tổ chức xã hội, giúp họ dễ dàng tiếp cận dịch vụ y tế.

Một trong những hướng đi hiệu quả là triển khai điều trị HIV tại tuyến xã. Việc đưa thuốc ARV về trạm y tế giúp người bệnh tiết kiệm thời gian, chi phí, đồng thời giảm rào cản tâm lý. Nhiều tỉnh đã áp dụng cấp thuốc ARV trong thời gian 3–6 tháng đối với bệnh nhân ổn định, tránh việc người bệnh phải tái khám thường xuyên.

PGS.TS. Phạm Đức Mạnh, nguyên Phó Cục trưởng Cục Phòng, chống HIV/AIDS, nhấn mạnh: "Chúng ta cần một hệ thống điều trị đa tầng: từ cấp xã cấp thuốc, đến các tổ chức xã hội hỗ trợ về tâm lý và chính sách cấp cao bảo vệ quyền lợi người bệnh. Việc tiếp cận cần linh hoạt, thân thiện và đặt người bệnh vào trung tâm. Khi người bệnh cảm thấy được tôn trọng, được chăm sóc toàn diện, họ sẽ không rời bỏ điều trị".

Bên cạnh đó, ứng dụng công nghệ số đang mở ra những cơ hội mới. Ứng dụng eClinica đã được triển khai tại một số địa phương, giúp người bệnh quản lý lịch tái khám, nhắc uống thuốc và kết nối với nhân viên y tế. Đây là công cụ hữu hiệu giúp giám sát và nâng cao hiệu quả điều trị.

Việc ngăn ngừa tình trạng bỏ điều trị ARV cho người nhiễm HIV là một nhiệm vụ cấp bách và quan trọng, không chỉ để bảo vệ sức khỏe của người bệnh mà còn để bảo vệ sức khỏe cộng đồng, ngăn ngừa lây nhiễm và giảm thiểu nguy cơ xuất hiện các chủng HIV kháng thuốc. Thực tế tại nhiều địa phương như Khánh Hòa, Đắk Lắk, Quảng Ninh, Cần Thơ đã cho thấy những thách thức rõ rệt: từ sự kỳ thị xã hội, rào cản về thủ tục hành chính, điều kiện kinh tế khó khăn cho đến thiếu thốn cơ sở y tế thân thiện.

Để giải quyết vấn đề này, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa Bộ Y tế, các cơ quan địa phương, tổ chức xã hội và cộng đồng. Các mô hình điều trị thân thiện, cấp thuốc tận nơi, mở rộng mạng lưới tiếp cận tại các vùng sâu, vùng xa và ứng dụng công nghệ trong quản lý lịch khám và nhắc nhở uống thuốc là những giải pháp thiết thực giúp người bệnh dễ dàng tiếp cận và duy trì liệu trình điều trị.

Bên cạnh đó, giảm kỳ thị xã hội và nâng cao nhận thức của cộng đồng là yếu tố quyết định giúp người nhiễm HIV cảm thấy được tôn trọng, không phải trốn tránh và lo sợ khi tiếp cận dịch vụ y tế. Mọi người cần hiểu rằng, người nhiễm HIV khi tuân thủ điều trị ARV đúng phác đồ sẽ có sức khỏe ổn định, sống khỏe mạnh và không còn là nguy cơ lây nhiễm cho cộng đồng.

Việt Nam đang hướng tới mục tiêu 95–95–95 vào năm 2030 (95% người nhiễm HIV biết tình trạng của mình; 95% người biết tình trạng được điều trị ARV; 95% người điều trị đạt tải lượng virus dưới ngưỡng ức chế). Để đạt được mục tiêu này, cần cam kết mạnh mẽ hơn nữa từ các cấp chính quyền, đồng thời sự chung tay của cả cộng đồng trong việc hỗ trợ, bảo vệ quyền lợi và giảm kỳ thị đối với người nhiễm HIV. Không một người bệnh nào bị bỏ lại phía sau, đó không chỉ là thông điệp, mà còn là lời cam kết cho một xã hội công bằng, nhân ái và không có sự phân biệt.

Khi những rào cản về thủ tục hành chính, tâm lý kỳ thị được gỡ bỏ, người nhiễm HIV sẽ tự tin hơn để tiếp tục điều trị, bảo đảm sức khỏe cá nhân và chung tay xây dựng một cộng đồng an toàn, mạnh khỏe, không còn dịch bệnh HIV/AIDS.

Thùy Chi

hiv
}
Top