Hành trình ngăn chặn bệnh lao lên tầm cao mới của nhóm nghiên cứu khoa học
(Chinhphu.vn) - Công trình "Nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật tiên tiến trong chẩn đoán, điều trị bệnh hô hấp tại Việt Nam" do PGS.TS Nguyễn Viết Nhung, Giám đốc Bệnh viện Phổi Trung ương và 22 đồng tác giả vừa vinh dự nhận giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học và công nghệ đợt 6.
Mô hình tinh hoa có thể giảm đến 72% bệnh lao
Cụm công trình "Nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật tiên tiến trong chẩn đoán, điều trị bệnh hô hấp tại Việt Nam" là cụm công trình nghiên cứu lớn, liền mạch và xuyên suốt với ba nhóm mục tiêu cốt lõi được thể hiện trong 23 nghiên cứu.
Kết quả nghiên cứu đã được ứng dụng trên 3 năm để giải quyết một vấn đề y tế cộng đồng rất khó khăn là bệnh hô hấp, đặc biệt là bệnh lao ở nước ta. Cụm công trình nghiên cứu trên phạm vi toàn quốc với số người tham gia nghiên cứu lên đến hàng trăm nghìn người, được thực hiện bởi số lượng nghiên cứu viên rất lớn từ trung ương đến địa phương, thu hút sự tham gia của nhiều nhà khoa học hàng đầu thế giới thuộc chuyên ngành hô hấp.
PGS.TS Nguyễn Viết Nhung cho biết, công trình này lần đầu tiên triển khai nghiên cứu với cỡ mẫu lớn gần 100.000 người, ứng dụng kỹ thuật tiên tiến để sàng lọc, chẩn đoán sớm, phát hiện bệnh lao trong cộng đồng đã làm giảm bệnh lao nhanh hơn 44% so với can thiệp thường quy, và nếu kết hợp tác động của các hoạt động thường quy có thể giảm đến 72% bệnh lao sau 4 năm triển khai nghiên cứu, là bằng chứng về tính khả thi của mục tiêu chấm dứt bệnh lao toàn cầu.
Kết quả của cụm công trình có tính lan tỏa rộng lớn, truyền được cảm hứng cho cộng đồng chống lao thế giới với chiến lược sàng lọc 2X (X-quang và Xpert) mang tính đột phá nhằm tăng cường phát hiện bệnh nhân lao trong cộng đồng.
Chiến lược sàng lọc 2X được triển khai trong thời gian ngắn do tác động của đại dịch COVID-19, nhưng đã chẩn đoán và điều trị thêm cho 2.854 bệnh nhân lao trong cộng đồng, ước tính tỉ lệ bệnh nhân lao được phát hiện là 1.248/100.000 dân, cao hơn nhiều so với tỉ lệ hiện mắc toàn quốc là 322/100.000 dân.
Mô hình này là tinh hoa được đúc kết trong nhiều năm bởi hàng chục nghiên cứu khác nhau, đã cho Việt Nam vị thế của một nước đi đầu, đề xuất cho Hội đồng Tư vấn Chiến lược của WHO nhằm phổ biến và nhân rộng mô hình trên phạm vi toàn cầu.
Việc ứng dụng thành công các kỹ thuật tiên tiến để sàng lọc, chẩn đoán sớm và xây dựng phác đồ mới điều trị bệnh lao đã giúp giảm gánh nặng bệnh lao tại Việt Nam nhanh hơn nhiều so với mức trung bình của toàn thế giới, với tỉ lệ giảm là 4,5% mỗi năm tại Việt Nam so với 1,5% mỗi năm trên toàn cầu.
Tỉ lệ tử vong năm 2020 đã giảm 34% so với năm 2015, cao hơn mức giảm tử vong do lao trung bình trên toàn cầu trong giai đoạn này là 14%. Dịch tễ lao giảm trong 10 năm qua đã giúp tiết kiệm được 8.781 tỷ đồng, tương đương với ngăn ngừa 284.000 người mắc lao mới nếu không có các biện pháp phòng, chống bệnh.
Bước tiến quan trọng trong lộ trình chấm dứt bệnh lao
Lần đầu tiên Việt Nam đã tiến hành nghiên cứu xác định được gánh nặng dịch tễ bệnh lao trên toàn quốc và những khoảng trống cần can thiệp từ hệ thống y tế, từ cộng đồng người bệnh và từ hệ thống chính trị. Kết quả của các nghiên cứu đã tham mưu cho Chính phủ và Bộ Y tế ban hành những chính sách y tế hiệu quả, đồng bộ, bảo đảm cung cấp cho người bệnh một hệ thống chăm sóc sức khỏe phổi toàn diện từ tuyến trung ương đến địa phương, đồng thời hoạch định các chiến lược và Chương trình hành động quốc gia về chấm dứt bệnh lao.
Kết quả của công trình đã góp phần quan trọng vận động nguồn lực trong nước và quốc tế, thúc đẩy tiến trình chấm dứt bệnh lao tại Việt Nam, được WHO và quốc tế đánh giá cao.
PGS.TS Nguyễn Viết Nhung cho biết, lần đầu tiên ở Việt Nam, sau 40 năm lịch sử điều trị lao, nhóm đã nghiên cứu và phát triển thành công phác đồ điều trị lao 4 tháng, là một bước tiến quan trọng trong lộ trình chấm dứt bệnh lao trên toàn cầu. Việc rút ngắn thời gian điều trị chỉ còn 2/3 so với phác đồ hiện tại đã làm tăng khả năng tuân thủ điều trị, giảm nguy cơ xuất hiện tác dụng phụ nghiêm trọng, nâng cao chất lượng điều trị cho người bệnh.
Việc ứng dụng sáng tạo phác đồ ngắn hạn điều trị lao đa kháng và phác đồ có thuốc mới Bedaquiline điều trị tiền siêu kháng và siêu kháng thuốc với hiệu quả điều trị cao và tác dụng phụ thấp, phối hợp với tối ưu hóa các kỹ thuật chẩn đoán tiên tiến đã giúp Việt Nam có kết quả điều trị cao hơn trung bình trên thế giới khoảng 15- 20%. Cụm nghiên cứu này đã cứu sống hàng ngàn người bệnh lao đa kháng, tiền siêu kháng và siêu kháng thuốc, trước đây coi như vô phương cứu chữa.
Điều đặc biệt của công trình là xác lập rất nhiều "lần đầu tiên". Cũng từ công trình này, lần đầu tiên tại Việt Nam, ca ghép thùy phổi từ người cho sống đã thành công với kết quả điều trị chống thải ghép rất thuận lợi. Theo dõi và điều trị biến chứng thải ghép sau ghép phổi là một vấn đề rất khó khăn kể cả ở các nước có nền y học phát triển, tuy nhiên sau hơn 4 năm, sức khỏe của bệnh nhân đầu tiên được ghép phổi tại Việt Nam vẫn ổn định.
PGS.TS Nguyễn Viết Nhung cho biết, thành công từ cụm công trình nghiên cứu này đã đưa Việt Nam vào bản đồ ghép phổi của thế giới, đưa kỹ thuật chuyên ngành hô hấp nước ta lên tầm cao mới. Từ đó, kỹ thuật ghép phổi có thể được áp dụng thường quy tại nhiều cơ sở y tế trên phạm vi toàn quốc.
Kết quả công trình giúp chẩn đoán sớm và điều trị các bệnh nhân mắc cúm A (H5N1) đã chứng tỏ năng lực y tế của Việt Nam ngang tầm khu vực và trên thế giới. Trong giai đoạn cao điểm bùng phát dịch H5N1 các năm 2004-2006, nhờ có các quy trình chẩn đoán, điều trị và dự phòng dịch bệnh toàn diện, Việt Nam đã khống chế được bệnh H5N1 thành công với tỉ lệ tử vong thấp là 39% so với thế giới là 61% (tr.750-823).
Các nghiên cứu điều trị và dự phòng bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, chẩn đoán sớm và điều trị ung thư phế quản là những bước tiến lớn của khoa học y học nước nhà, đã góp phần cải thiện chất lượng cuộc sống và kéo dài tuổi thọ cho người bệnh, đồng thời giảm tải gánh nặng cho hệ thống y tế.
Danh sách 23 tác giả của công trình "Nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật tiên tiến trong chẩn đoán, điều trị bệnh hô hấp tại Việt Nam":
1.PGS.TS. Nguyễn Viết Nhung, Giám đốc Bệnh viện Phổi Trung ương
2. PGS.TS. Đinh Ngọc Sỹ, Ủy viên ban điều hành Chương trình chống lao Quốc gia, Giám đốc Trung tâm Đào tạo và nghiên cứu khoa học, Hội Phổi Việt Nam, nguyên Giám đốc Bệnh viện Phổi Trung ương.
3. PGS.TS. Nguyễn Bình Hòa, Phó Trưởng ban điều hành Chương trình chống lao Quốc gia, Phó Giám đốc Bệnh viện Phổi Trung ương
4.TS.BS. Nguyễn Thu Anh, Giám đốc Viện nghiên cứu Y khoa WoolCock, Văn phòng Việt Nam.
5. PGS.TS. Nguyễn Văn Hưng, Trưởng khoa Vi sinh và labo lao chuẩn Quốc gia Bệnh viện Phổi Trung ương
6. TS.BS. Hoàng Thị Thanh Thủy, Trưởng đơn vị lao kháng thuốc, Chương trình chống lao Quốc gia, Bệnh viện Phổi Trung ương
7. TS.BS. Nguyễn Kim Cương, Trưởng khoa Lao hô hấp, Bệnh viện Phổi Trung ương – Phó trưởng Bộ môn lao và bệnh phổi Đại học Y Hà Nội
8. TS.DS. Nguyễn Thị Thủy, Trưởng khoa Dược, Bệnh viện Phổi Trung ương
9. TS.BS. Phan Thị Thu Hà, Giám đốc Chương trình hợp tác giữa trường Đại học California, San Francisco và Chương trình chống lao Quốc gia tại Việt Nam
10. BS. Nguyễn Viết Hải, Phụ tráchĐiều phối viên Trung tâm hợp tác nghiên cứu lao và bệnh phổi Việt Nam (VICTORY), Bệnh viện Phổi Trung ương
11. TS.BS. Nguyễn Hữu Lân, Giám dốc Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch, TP Hồ Chí Minh
12. PGS.TS. Nguyễn Thái Sơn, Chủ nhiệm Bộ môn khoa Vi sinh Bệnh viện Quân Y 103, Học viện Quân Y.
13. GS.TS. Đồng Khắc Hưng, nguyên Phó Giám đốc Học viện Quân Y
14. GS.TS. Ngô Quý Châu, Phó Tổng Giám đốc chuyên môn, Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh
15. PGS.TS. Phan Thu Phương, Giám đốc Trung tâm Hô hấp, Bệnh viện Bạch Mai.
16. GS.TS. Nguyễn Trường Giang, Cục trưởng Cục Quân Y, Tổng cục Hậu cần, Bộ Quốc phòng.
17. GS.TS. Trần Viết Tiến, Giám đốc Bệnh viện Quân Y 103
18. PGS.TS. Tạ Bá Thắng, Phó Giám đốc Bệnh viện Quân Y 103, Phụ trách/Chủ nhiệm Bộ môn lao và bệnh phổi, Giám đốc Trung tâm Nội hô hấp.
19. GS.TS. Guy Marks, Đại học New South Wales
20. GS.TS. Frank Cobelens, Đại học Amstecdam/Chủ tịch Hội Sức khỏe toàn cầu Amstecdam
21. TS. Edine Tiemersma, Hiệp hội chống lao Hoàng gia Hà Lan KNCV
22. GS.TS. Greg Fox, Đại học Sydney.
23. GS.TS. Payam Nahid, Đại học California, San Francisco UCSF
Thùy Chi